image hoi dap
image hoi dap

Các bài thơ hay của Bà Huyện Thanh Quan

icon-time2/3/2024

Một trong những nữ thi sĩ không thể thiếu sót trong văn học trung đại Việt Nam là Bà Huyện Thanh Quan. Dù các tác phẩm bà để lại cho hậu thế không còn nhiều, nhưng thơ bà rất điêu luyện, chuẩn mực về niêm luật, hàm súc, giàu nhạc điệu. Dưới đây Topbee tổng hợp những bài thơ hay của Bà Huyện Thanh Quan. Mời bạn cùng theo dõi!


Giới thiệu về Bà Huyện Thanh Quan

Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848) tên thật là Nguyễn Thị Hinh (có tài liệu ghi Ngô Thị Hình). Quê ở làng Nghi Tàm, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội. Chồng bà làm quan tri huyện Thanh Quan (thuộc Thái Ninh), tỉnh Thái Bình dưới thời vua triều Nguyễn nên được người đời đặt cho tên gọi là Bà Huyện Thanh Quan.

Thơ bà điêu luyện, chuẩn mực về niêm luật, hàm súc giàu nhạc điệu. Vì thế, trong thời kỳ theo chồng vào Huế, bà được vua Minh Mạng triệu tập vào triều làm Cung Trung giáo tập để dạy công chúa và các cung nhân học. Ở đây, bà giao tiếp lịch thiệp và để lại nhiều ấn tượng với nhiều kẻ sĩ. Năm 1874, sau khi chồng bà mất, bà cùng 4 con nhỏ về làng Nghi Tàm được 1 năm thì qua đời.


Đặc điểm thơ của Bà Huyện Thanh Quan

Bà sáng tác nhiều bài thơ chủ yếu là thơ Nôm viết theo thể Đường luật. Thơ bà hầu hết miêu tả thiên nhiên, cảnh sắc của quê hương đất nước. Dù là phận nữ nhi, nhưng các bài thơ của bà vô cùng điêu luyện, chuẩn mực về niêm luật, hàm súc giàu nhạc điệu. Đến nay, các bài thơ của bà đã thất lạc, giờ chỉ còn lại một số ít bài như: Qua Đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà, Thăng Long hoài cổ, Chùa Trấn Bắc,…


Các bài thơ nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan


1. Qua đèo Ngang

Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.

Các bài thơ hay của Bà Huyện Thanh Quan (ảnh 1)

Nội dung: Bài thơ Qua Đèo Ngang được bà viết khi trên đường cùng chồng đến Huế nhậm chức. Bà đến đèo Ngang vào lúc chiều tà và cảm xúc của người con yêu nước dâng trào. Bài thơ miêu tả cảnh xế tà tại nơi đây với cảnh vật thật đẹp nhưng hoang sơ, vắng lặng. Đồng thời nói lên nỗi cô đơn, nhớ nhà của tác giả.


2. Chiều hôm nhớ nhà

Vàng toả non tây, bóng ác tà,
Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa.
Ngàn mai lác đác, chim về tổ,
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà.
Còi mục thét trăng miền khoáng dã,
Chài ngư tung gió bãi bình sa.
Lòng quê một bước nhường ngao ngán,
Mấy kẻ tình chung có thấu là?

Nội dung: Bài thơ chiều hôm nhớ nhà được Bà Huyện Thanh Quan viết để miêu tả cảnh chiều hôm khi bà đang ở kinh thành Huế. Nhìn quanh cảnh trong triều với hình ảnh vàng tỏa non tây, bóng ác tà, đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa, ngàn mai lác đác, chim về tổ, dặm liễu bâng khuâng. Những hình ảnh này gợi cho bà cảm giác thê lương, tha thiết và có chất chứa những nỗi buồn đau trước khung cảnh thiên nhiên càng gợi cho bà nỗi nhớ nhà da diết.


3. Thăng Long thành hoài cổ

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm tương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.

Nội dung: Bài thơ được viết trong thời gian bà làm Cung Trung giáo tập tại Huế. Đầu tiên là lời bà trách tạo hóa sinh ra cho con người bao nỗi khổ đau, sinh ra cuộc sống với vũ trụ lại xui nên những cuộc tranh giành đẫm máu. Bà coi Thăng Long là thời hoàng son nhưng dưới triều Nguyễn lại chuyển kinh thành về Huế xây một cõi quyền uy ăn chơi bậc nhất thế gian lúc bấy giờ. Đây cũng là lời oán trách của bà với chế độ phong kiến khiến một kinh thành nguy nga trở thành một đống đổ nát, hoang tàn.


4. Cảnh Hương Sơn

Đệ nhất nam thiên ấy cảnh này
Thuyền nan đón khách máy chèo lay
Hai bên quả núi lồng hương suối
Bốn mặt hoa ngàn rủ bóng cây
Cửa Phật lơ thơ tầng đá dãy
Chùa tiên bát ngát khói hương bay
"Nam vô" tiếng dậy thưa trần tục
Non nước Bồng Lai mới thấy đây!

Nội dung: Bài thơ miêu tả cảnh đẹp của chùa Hương, nơi có cảnh đẹp mà bà cho là “đệ nhất Nam thiên” mới có. Chùa Hương có “núi lồng hương”, có thuyền nan đón khách đến chân núi và leo tới cửa phật.


5. Qua chùa Trấn Bắc

Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,
Khách đi qua đó chạnh niềm đau.
Mấy toà sen rớt mùi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa, cảnh cũ, nào đâu tá?
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu!

Nội dung: Thêm một bài thơ về nỗi buồn của bà về thành Thăng Long là Qua chùa Trấn Bắc. Cảnh vật, cỏ cây hoa lá nơi đây còn vương vấn của một thời đã qua. Nhà thơ như đứng lặng trầm ngâm nhìn sắc màu thời gian, nỗi buồn tỏa rộng trước cảnh chùa Trấn Bắc đã đổi thay.


6. Tức cảnh chiều thu

Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
Trắng xoá trường giang phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn, say chấp rượu,
Túi lưng phong nguyệt, nặng vì thơ.
Cho hay cảnh cũng ưa người nhỉ,
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ.

Nội dung: Bài thơ Tức cảnh chiều thu miêu tả cảnh sắc trời thu có chút đơn sơ, đượm buồn nhưng lại vô cùng đẹp đẽ và lãng mạn. Đứng trước phong cảnh hữu tình này, thi sĩ dù không say cũng phải say. Cái say ở đây là không chỉ là say qua men rượu mà còn ngất ngây say mê trước cảnh đẹp độc đáo của quê hương.


7. Buổi Chiều Lữ Thứ

Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa lẩn trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn trang đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn.

Các bài thơ hay của Bà Huyện Thanh Quan (ảnh 2)

Nội dung: Chiều hôm nhớ nhà cũng là một bài thơ được Bà huyện Thanh Quan viết về cảnh chiều hôm. Thời điểm này bức tranh thiên nhiêm vô cùng đẹp nhưng lại đượm buồn khiến con người có cảm giác cô đơn, lạc lõng ở nơi đất khách quê người. Bài thơ là những nỗi niềm tâm sự của người lữ khách xa quê, nhớ nhà, nhớ quê. Thế nhưng ẩn sâu đó là sự thất vọng của bà về một chế độ phong kiến suy thoái, của thời đại lúc bấy giờ.


8. Đề cái chén vẽ sơn thuỷ

Như in thảo mộc trời Nam lại;
Đem cả sơn hà đất Bắc sang.

Nội dung: Tương truyền vua Minh Mạng có bộ chén kiểu của Trung Quốc mới đưa sang, chén vẽ sơn thuỷ Việt Nam và có đề thơ Nôm cũng như một số đồ sứ kiểu thời đó, nên vua đưa khoe với những người chung quanh. Mọi người đã yêu cầu bà huyện Thanh Quan làm một bài thơ chữ Nôm. Bà làm ngay hai câu thơ này. Vua rất thích thú!


9. Song nữ tế tế thái thuỷ văn

Trước sàng linh khóc mà than rằng:
Kỳ trăm năm chưa mãn, mẹ vội lên cõi Phật chẳng nhìn con,
Ơn chín chữ khôn đền, con tìm khắp dưới trời không thấy mẹ.
Mẹ lìa! Mẹ ơi!
... con, tình thảm thiết, sao đành,
Con nhớ mẹ, nỗi sau xưa, xiết kể.
Duyên tác hợp, lạm nghe mười chín tuổi, rổ tần phồn từng theo dấu mẹ đi.
Mối sinh thành đã hầu bảy tám lần, sân chi diệp lại ví dòng Tạ thị.
Thúi từ nhân đà nức tiếng nghi gia,
Đường thanh lịch cũng đủ mùi thù thế.

Ngoài ba kỷ chưa vẹn nguyền giai lão, buồng hung từng gió tủi mưa sầu,
Năm mươi năm chưa trọn kiếp phù sinh, chồi liễu bỗng sương giăng nắng xế.
Ôi!
Lá rụng ngàn xuân,
Mây lồng đỉnh dãy.
Trên tiên cảnh chợt mách tin, thanh điểu rước cùng đi cho vẹn nghĩa tao khang,
Dưới trần hoàn dầu cưu dạ từ ô tìm đâu thấy để đền ơn non bể.
Núm đồng nghiêng, dễ cấm tiếng chuông rè,
Chùm quả nặng, khôn nâng cành lá ủ.
Song cũng biết một trai là có, nhưng đà mây bay hạc lánh, thừa điêu phải cậy tôn hàng,
Đã hay mười gái cũng là không, khôn biết quả mãn thuyền đầy, tương sự chỉ nhờ tay nữ tế.
Rày:
Nhân tiết hạ thiên,
Lâm tuần đoan ngọ.
Gọi là bát nước điển hương, lòng thành kính dãi bày trong ngu tế.
Nội dung: Đây là bài văn tế của hai chàng rể tế mẹ vợ, tỏ lòng biết ơn và thương tiếc người mẹ vợ không còn trên cõi đời.

Hoàng Thảo
Đánh giá bài viết
Đặt câu hỏi
icon-make-question icon-make-question