image hoi dap
image hoi dap

Top 10 Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư

icon-time18/5/2023

Nhắc tới những tác phẩm viết về mùa thu trong kho tàng văn học Việt Nam có lẽ phải kể đến đầu tiên là bài thơ Tiếng thu của nhà thơ Lưu Trọng Lư. Bài thơ đã giúp tác giả trở thành một trong những nhà thơ đi đầu trong phong trào thơ mới. Để các bạn hiểu hơn về bài thơ, Topbee đã mang tới bài Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư sau đây.


Dàn ý Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư

- Mở bài:

Giới thiệu chung về bài thơ

- Thân bài:

+ Bức tranh mùa thu được gợi mở trong câu hỏi thứ nhất: Mùa thu với ánh “trăng mờ” thơ mộng đã về nhưng lại khiến cho chúng ta thấy buồn man mác và mơ hồ

+ Hình ảnh người cô phụ nhớ chồng đang chinh chiến nơi xa khiến cho chúng ta hiểu được sao mùa thu lại man mác buồn, vì mùa thu lãng mạn là vậy nhưng hạnh phúc của người cô phụ đang không được trọn vẹn

+ Khung cảnh mùa thu thật đẹp hiện ra rõ nét nhưng lại không còn lãng mạn vì tiếng lá thu “xào xạc” và hình ảnh chú nai vàng đang đứng một mình ngơ ngác thật cô đơn giống nàng cô phụ và như tâm hồn tác giả vậy

- Kết bài:

Khái quát cảm nhận về bài thơ

Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư

Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư - Mẫu số 1

      Trong tất cả bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, có lẽ mùa thu là mùa lãng mạn và dịu dàng nhất. Chính vì vậy, với tâm hồn bay bổng của mình, có rất nhiều nhà thơ, nhà văn đã lựa chọn mùa thu làm chủ đề sáng tác cho các tác phẩm của mình. Một trong số đó chính là nhà thơ Lưu Trọng Lư với tác phẩm “Tiếng thu”. Tên tuổi của Lưu Trọng Lư đã gắn liền với bài thơ này, đưa ông trở thành một trong những nhà thơ đi đầu trong phong trào thơ mới. Qua khung cảnh mùa thu nên thơ, tác giả đã thể hiện tâm trạng sâu lắng, man mác buồn của nhân vật trữ tình:

“Em không nghe mùa thu

dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

hình ảnh kẻ chinh phu

trong lòng người cô phụ?

Em không nghe rừng thu.

lá thu kêu xào xạc

con nai vàng ngơ ngác

đạp trên lá vàng khô?”

Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư

      Mở đầu bài thơ, là câu hỏi thứ nhất của nhà thơ Lưu Trọng Lư dành cho tất cả người đọc qua đại từ phiếm chỉ “Em”. Nội dung của câu hỏi đã làm khơi gợi cảm xúc sâu lắng, trữ tình trong lòng chúng ta về mùa thu. Mùa thu đã về đến rồi, với hình ảnh “ánh trăng mờ” đặc trưng, khiến cho tâm hồn chúng ta thổn thức, rạo rực trong sự chuyển đổi của đất trời. Nhưng câu thơ gợi mở ra không gian màu thu này lại không hề mang tới cho chúng ta sự vui vẻ hay nhẹ nhàng mà lại mang tới một cảm xúc man mác buồn và một sự mơ hồ không rõ tên. Để giải đáp cho cảm xúc của người đọc, nhà thơ đã tiếp tục mang tới hình ảnh thứ hai, đó là một người “cô phụ”, đang nhớ về một “kẻ chinh phụ”. Mùa thu trong “Tiếng thu” man mác buồn vì trong không gian mùa thu trữ tình đó lại xuất hiện một người vợ cô độc không có chồng ở bên, bởi chồng của cô là một người chinh phụ đang đi chinh chiến bảo vệ Tổ quốc. Chính điều này làm cho tâm hồn Lưu Trọng Lư “rạo rực” lên một nỗi buồn khó tả, không thể thốt thành lời rõ ràng mà chỉ có thể tâm sự với người đọc qua dòng thơ “Em không nghe…?”. Một khung cảnh mùa thu thật đẹp được mang tới trong những câu thơ cuối không được lãng mạn và vui vẻ như những mùa thu khác, vì người “cô phụ” không có được hạnh phúc trọn vẹn ở cạnh bên người mình ngày đêm nhớ mong. Rừng thu cây thay lá rụng xuống khắp nơi thật đẹp làm sao nhưng lại tĩnh lặng và ảm đạm vì tiếng lá thu kêu “xào xạc”, một âm thanh làm tăng thêm sự cô đơn, trống vắng trong tâm hồn chúng ta và người “cô phụ”. Trong khung cảnh đó, bỗng nhà thơ Lưu Trọng Lư khắc họa một chú “nai vàng” đang ngơ ngác đạp lên đống lá khô. Không gian rộng lớn của rừng thu lại chỉ có một chú nai vàng đang thơ thẩn đạp lên lá vàng chứ không phải là tung tăng vui đùa cùng những con vật khác càng làm khung cảnh mùa thu trở nên mơ mộng nhưng cũng man mác buồn thêm. Vì chú nai một mình giống như là nàng cô phụ, hay cũng có thể đó là hình ảnh nhà thơ tự nhắc đến sự cô đơn, trống vắng của mình vậy.

      Bài thơ “Tiếng thu” quả là một kiệt tác văn học viết về mùa thu trong khô tàng văn học Việt Nam. Qua bài thơ, độc giả chúng ta vừa cảm nhận được không khí mùa thu nên thơ, dịu dàng đặc trưng nhưng đồng thời cũng thấy được tâm hồn nhạy cảm, đầy tâm trạng của nhân vật trữ tình qua hình ảnh người cô phụ nhớ chồng. Nhà thơ Lưu Trọng Lư thật tài tình khi có thể khắc họa thành công một mùa thu đầy cảm xúc tới vậy để gửi tới độc giả chúng ta.


Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư - Mẫu số 2

Xuất hiện giữa những cảm xúc nóng bức của mùa hạ và sự lạnh lẽo của mùa đông, mùa thu mang đến nguồn cảm hứng vô tận cho các văn nhân, thi sĩ qua các thời kỳ. Trong dòng thơ của Viết Thu vịnh và Đây mùa thu tới, Nguyễn Khuyến và Xuân Diệu đã làm phong phú di sản văn hóa với hai tác phẩm xuất sắc về cảnh thu và tình thu. Tiếp theo, với bài thơ Tiếng thu, Lưu Trọng Lư đã khắc sâu tên mình trên bảng danh sách những nhà thơ tài năng đắt giá của mùa thu:

"Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ?

Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?"

Chủ đề về âm thanh của mùa thu được thể hiện qua việc sử dụng từ ngữ. Cả bài thơ xoay quanh từ "nghe," xuất hiện ba lần ở đầu mỗi khổ thơ. Mỗi lần, từ này mang đến một chiều sâu mới cho người đọc.

Chúng ta "nghe" tiếng "thổn thức" dưới bức tranh trăng mờ của mùa thu, cảm nhận tiếng lòng "rạo rực" và "xào xạc" trong rừng vắng của người phụ nữ đang đợi chồng chiến trận xa. Tiếng lá thu rơi như một nhịp nhàng, đưa đến một không khí trữ tình và cảm động.

Ngoài ra, chủ đề về âm thanh của tiếng thu còn được tác giả diễn đạt thông qua nguyên âm "u" tròn, xuất hiện nhiều lần ở cuối câu thơ. Điều này tạo ra một âm điệu êm dịu, nhẹ nhàng và lan tỏa trong tâm hồn đọc giả.

Cấu trúc của bài thơ được sử dụng một cách khéo léo để phản ánh chủ đề về tiếng thu. Thay vì duy trì cấu trúc khổ thơ đều đặn, Lưu Trọng Lư đã tăng số câu trong mỗi khổ thơ, từ hai câu ở khổ thứ nhất, ba câu ở khổ thứ hai, đến bốn câu ở khổ thứ ba. Điều này tạo nên một tình cảm tăng dần, tương ứng với sự âm nhạc và lan tỏa của tiếng thu.

Gieo vần liền và sử dụng từ láy đặt ở cuối câu thơ kết hợp các khổ thơ và câu thơ trong bài, tạo nên một liên kết mạch lạc, làm giàu âm thanh và cảm xúc của bài thơ.

Cuối cùng, những dòng thơ cuối cùng về "Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên lá vàng khô?" hình dung hóa sự vụng trộm và thanh nhã của mùa thu. Người đọc không chỉ "nghe" tiếng lá vàng khô vỡ vụn dưới bước chân của những con nai ngơ ngác, mà còn "nghe" sự tĩnh lặng và đẹp đẽ của mùa thu, không qua tai mà qua trí tưởng tượng, vang lên trong tâm hồn.

Với cách tiếp cận này, "Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư không chỉ là một bức tranh mùa thu, mà là một hành trình sâu sắc vào tâm hồn con người, nơi tiếng thu không chỉ là âm thanh với tai, mà còn là cảm xúc với tâm. Tác phẩm này để lại nhiều suy ngẫm về mùa thu và cảm xúc của con người, làm cho độc giả trải nghiệm sâu sắc hơn về nghệ thuật thơ của Lưu Trọng Lư.


Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư - Mẫu số 3

Lưu Trọng Lư, người tiên phong trong phong trào Thơ Mới, đã để lại dấu ấn đặc biệt trong nghệ thuật thơ Việt Nam. Hoài Thanh, một nhà phê bình tài năng, mặc dù có những lời chỉ trích về sự cẩu thả và lười biếng trong ngôn từ của Lư, nhưng cũng nhận xét rằng ông tạo nên những tác phẩm thơ ấn tượng. Trong số đó, bài thơ "Tiếng thu" nổi bật như một kiệt tác, được Nguyễn Khoa Điềm coi là một trong những bài thơ thơ nhất Việt Nam.

Mùa thu, với những vấn vương riêng, đã làm cho Lưu Trọng Lư trở nên sâu sắc trong cảm xúc. Ông tận dụng mùa thu như một nguồn cảm hứng, ngắm nhìn và tưởng tượng về mùa thu đầy tuyệt diệu, rồi bày tỏ những tâm trạng không yên khiến ông viết nên những dòng thơ tuyệt vời.

Bài thơ bắt đầu với hai câu thơ đẹp như một bức tranh thương nhớ, tạo nên không khí buồn bã, thổn thức. Cả bài thơ như một cuộc trò chuyện giữa hai nhân vật, người trong cuộc chiến trận và người ở nhà trông ngóng. Cảm xúc rạo rực và thổn thức đan xen, tạo nên một bức tranh tình cảm phức tạp.

Hình ảnh của người chinh phụ trở nên rõ nét, làm nổi bật nỗi lo lắng và mong đợi của họ khi chồng ra chiến trận. Bức tranh này không chỉ là về tình yêu, mà còn về sự đau đớn và lo sợ khi phải đối mặt với mối nguy từ xa.

Bất ngờ, bài thơ chuyển đến hình ảnh "Con nai vàng ngơ ngác, Đạp trên lá vàng khô?" Dường như không liên quan, nhưng lại là một tác phẩm độc đáo. Con nai vàng trở thành biểu tượng của tình yêu kiên định và đau đớn. Mặc dù chiến tranh đã làm héo úa mọi thứ xung quanh, nhưng tình yêu vẫn tồn tại và vượt qua mọi thách thức, giữa những lá vàng khô của cuộc sống.

Như vậy, "Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư không chỉ là một bức tranh về mùa thu, mà là một hành trình sâu sắc vào tâm hồn con người. Nó không chỉ là về vẻ đẹp của mùa thu, mà còn về sự da diết, những khắc khoải và niềm tin trong tình yêu. Tác phẩm này để lại nhiều suy ngẫm về mùa thu và cảm xúc của con người, làm cho độc giả cảm nhận sâu sắc hơn về nghệ thuật thơ của Lưu Trọng Lư.


Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư - Mẫu số 4

Trong thế giới phong phú của văn chương, mùa thu không ngừng xuất hiện như một nguồn cảm hứng dồi dào, làm bừng sáng những bức tranh thơ với sắc màu đa dạng của cảm xúc. Mỗi tác giả đều mang đến cho độc giả những cái nhìn riêng về mùa thu, tạo nên những tác phẩm độc đáo.

Nguyễn Khuyến, trong bản thơ về mùa thu của mình, đưa người đọc đến một thôn quê yên bình, nơi mà mùa thu bồi hồi trong tĩnh lặng. Xuân Diệu, ngược lại, miêu tả mùa thu như một nàng thơ tinh khôi, lộng lẫy và kiều diễm. Trái ngược với cả hai, Lưu Trọng Lư lại mang đến những cảm nhận mới mẻ, tinh tế về mùa thu qua tác phẩm "Tiếng thu".

Mùa thu, dường như, làm cho trái tim của những người sáng tác rung động và tràn đầy cảm xúc. Đối với Lưu Trọng Lư, mùa thu là nguồn cảm hứng lớn, khiến ông không ngừng trầm ngâm và viết nên những dòng thơ tuyệt vời.

"Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức

Em không nghe rạo rực"

Những câu thơ mở đầu này mở ra trước mắt độc giả một thế giới tình cảm phức tạp. Thơ như là một cuộc đối thoại giữa chàng trai và cô gái, giữa người đang đối mặt với chiến trận và người đang sống một cuộc sống bình yên nhưng mòn mỏi từng ngày đợi chờ. Bài thơ đặt ra những câu hỏi về tâm trạng, về những đau đớn và hi vọng.

"Hình ảnh người chinh phụ

Trong lòng người cô phụ"

Những dòng thơ này đưa người đọc đến với hình ảnh đau lòng của những người phụ nữ chờ đợi, buồn bã khi chồng ra đi. Họ là những người cô phụ với lòng trung hiếu và tình yêu thương không biên giới, nhưng cũng đầy đau đớn và sóng gió.

Cuối cùng, khổ thơ cuối cùng như một bản nhạc lưu luyến, kể về tiếng thu và lá rơi xao xác dưới bước chân của con nai vàng. Cách sử dụng vần và lời lẻ cuối cùng tạo nên một bức tranh thu tuyệt vời, đầy ẩn ý và cảm xúc.

"Em không nghe rừng thu

Lá thu rơi xao xác

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?"

Thơ của Lưu Trọng Lư không chỉ đơn thuần là sự mô tả về mùa thu, mà còn là một hành trình sâu sắc vào tâm hồn con người. Bức tranh về mùa thu không chỉ là hình ảnh mà còn là âm thanh, là tiếng lòng, là những cảm xúc tinh tế và sâu sắc.

Tác phẩm này để lại nhiều suy nghĩ và cảm xúc cho độc giả. Nó là một cái nhìn sâu sắc và đặc biệt về mùa thu, từ góc độ của một nhà thơ nhạy bén. Mỗi câu thơ như một tấm gương, cho chúng ta thấy được sự đẹp đẽ và phức tạp của cuộc sống trong những khoảnh khắc thuần khiết nhất của mùa thu.


Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư - Mẫu số 5

Xuất hiện giữa mùa hạ nóng bức và mùa đông lạnh lẽo, mùa thu mát dịu và mơ màng là nguồn cảm hứng bất tận của văn nhân, thi sĩ xưa nay. Viết Thu vịnh và Đây mùa thu tới, Nguyễn Khuyến và Xuân Diệu đã đóng góp cho văn học sử nước nhà hai bài thơ hay về cảnh thu và tình thu. Với Tiếng thu, Lưu Trọng Lư đã dọn cho mình một chỗ ngồi khá độc đáo trên văn đàn của những thi sĩ mùa thu:

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?

Chủ đề tiếng thu đã được nhà thơ thể hiện trước hết bằng từ ngữ. Xuyên suốt bài thơ là một từ “nghe” xuất hiện ba lần ở đầu mỗi khổ thơ. Người đọc nghe gì?

Chúng ta nghe lời “thổn thức” dưới ánh trăng mờ của mùa thu được nhân cách hóa, nghe tiếng lòng “rạo rực”xào xạc” trong rừng vắng. của người cô phụ có chồng đi đánh giặc xa, nghe tiếng lá thu rơi “

Chủ đề tiếng thu còn được tác giả diễn tả bằng thanh âm. Đó là hai câu thơ có toàn thanh bằng xuất hiện ở đầu khổ thơ thứ nhất và thứ ba: “Em không nghe rừng thu”

Trước cách mạng tháng Tám, trong khi câu thơ Đường và thơ lục bát với luật gián cách bằng trắc còn ngự trị trên văn đàn, Lưu Trọng Lư đã sáng tạo và độc đáo khi tự do viết những câu thơ ngũ ngôn có toàn thanh bằng để miêu tả tiếng thu.

Đọc những câu thơ này, cùng với sự hỗ trợ của nguyên âm “u” tròn môi xuất hiện nhiều lần ở cuối câu thơ, ta như nghe được tiếng thu êm đềm, nhẹ nhàng và vang vang của tác giả.

Cú pháp của bài thơ cũng góp phần biểu hiện tiếng thu. Không phải ngẫu nhiên mà cả ba khổ thơ của bài Tiếng thu đều được viết bằng ba dấu hỏi ở cuối ba khổ thơ này. Tại sao tác giả phải hỏi liên tục như vậy? Tại vì nhà thơ không tin người em nào đó có thể nghe được cái tiếng thu quá xa vắng và mơ hồ. Không nghe ư? Em hãy lắng lòng sâu đậm để tiếp nhận tiếng thu dịu nhẹ và mơ màng ấy.

Cấu trúc của bài thơ cũng được tác giả sử dụng để thể hiện chủ đề tiếng thu. Hầu hết các bài thơ cũ và thơ mới đều được viết thành những khổ bốn câu đều đặn. Ở bài thơ này, số dòng trong mỗi khổ thơ tăng dần đều. Nếu xem mỗi dòng là mỗi khổ thơ thì khổ thứ nhất có hai câu, khổ thứ hai có ba câu, khổ thứ ba có bốn câu. Nhà thi sĩ có ý thức khi viết những khổ thơ như vậy để diễn tả một cách có nghệ thuật cái tính chất ngân nga, lan tỏa của thu thanh.

Thêm vào đó, cách gieo vần liền bằng các từ láy đặt ở cuối câu thơ đã liên kết các câu thơ trong khổ (“xào xạc” với “ngơ ngác”) và các khổ trong bài (“thổn thức” và “rạo rực”), vừa làm giàu yếu tố nhạc của thơ, vừa làm cho các câu thơ và khổ thơ như kéo dài ta và nối lại với nhau, tạo cho bài thơ cái âm hưởng miên man của khúc thu ca.

Để thưởng thức trọn vẹn giai điệu mùa thu của Lưu Trọng Lư, hãy đọc lại Tiếng Thu, đọc liền mạch và chỉ dừng lại một giây khi gặp dấu chấm hỏi. Hãy tưởng tượng có ai đó ném xuống mặt nước phẳng lặng của hồ thu một viên đá nhỏ. Nhiều vòng tròn sóng đồng tâm xuất hiện và lan tỏa mãi. Đó là hình ảnh làn sóng âm thanh của tiếng thu mà nhà thi sĩ Lưu Trọng Lư đã làm vang lên trong tâm hồn mỗi người.

Hai dòng thơ cuối của Tiếng thu đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh:

“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”

Ta nghe gì khi nhìn thấy hình ảnh ấy? Có phải ta nghe tiếng lá vàng khô vỡ vụn dưới những bước chân nai ngơ ngác? Tiếng thu đích thực của Lưu Trọng Lư là như vậy đó. Ta không nghe tiếng thu ấy bằng tai mà nghe bằng trí tưởng tượng, nghe vang lên trong tâm hồn, mỗi khi thấy lá ngoài đường rụng nhiều và những đám mây bàng bạc trên không…

Tắt một lời, thu thanh của Lưu Trọng Lư là vô thanh. Đó là cái “vô thanh thắng hữu thanh” mà tác giả Tỳ Bà Hành là Bạch Cư Dị đã một lần khẳng định trong cảnh trăng nước tương giao trên bến Tầm Dương. Với nhận thức tinh tế của nhà thi sĩ, trong Đây mùa thu tới, Xuân Diệu đã cảm được cái tiếng thu ấy khi nhìn những “thiếu nữ buồn không nói”. Bằng trí tuệ của một nhà phê bình có biệt tài, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã “ngộ” được cái thu thanh ấy khi bình Tiếng thu của Lưu Trọng Lư.

“Tiếng thu” ấy, riêng gì mùa thu mới có? Tuy nó phát khởi từ mùa thu nhưng nó đã vang bên tai loài người từ muôn đời thì bao giờ chả còn chút dư âm sau những ngày thu tàn tạ. Đã sống nhiều trong cuộc đời tư tưởng thì dầu trong mùa đông hay mùa xuân, mùa thu hay mùa hạ, ai là người không có những buổi “chiều thu”, những buổi mà cái buồn vẩn vơ nó đến van lơn cám dỗ, những buổi mà tiếng thu vàng, gieo vừa nhẹ, vừa chìm...


Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư - Mẫu số 6

Lưu Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Nhận định về nghệ thuật thơ ông, nhà phê bình thiên tài Hoài Thanh đã có những nhận xét thật chuẩn xác: “Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt rũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu Lư chỉ để thơ tràn trên mặt giấy”. Ông đã để lại một số lượng tác phẩm có tầm ảnh hưởng lớn trong đó bài thơ “Tiếng thu” là một bài thơ tiêu biểu nhất. Bài thơ được Nguyễn Khoa Điềm coi là một trong những bài thơ thơ nhất Việt Nam. Nhận định này còn gây khá nhiều tranh cãi nhưng đối với riêng tôi thì nó là một nhận định khá chính xác. Bởi khi đọc “Tiếng thơ” ta thấy được đây chính là một kiệt tác đó chính là một âm thanh day dứt của thời xa xưa và còn vọng mãi đến bây giờ.Mùa thu dường như gợi rất nhiều vấn vương trong thơ ca của những người thi sĩ.

Đối vớ Lưu Trọng Lư cũng như thế, mùa thu cũng khiến cho ông có rất nhiều cảm xúc. Tác giả đã chọn cho mình một góc riêng để ngắm thu để mơ mẩn vè thu để rồi đứng ngồi không yên khi cảm xúc ùa về và để rồi viết lên những trang thu tuyệt diệu. Đánh giá về bài thơ “Tiếng thu”, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng đã từng nhận định đây không chỉ là bài thơ hay nhất trong đời thơ của Lưu Trọng Lư, mà còn là bài thơ “thơ” nhất của thi ca Việt Nam hiện đại. Như vậy, qua cách đánh giá này, ta cũng phần nào hiểu được vị trí và vai trò của “Tiếng thu” trong thơ ca Việt Nam.

Qua bài thơ “Tiếng thu”, Lưu Trọng Lư đã mượn không gian, cảnh vật đặc trưng của mùa thu để thể hiện bức tranh tâm trạng đầy chân thực và sống động, đó chính là tâm trạng u buồn, có chút da diết, khắc khoải cảm xúc của nhân vật trữ tình:

“Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức”

Nhân vật trữ tình ở đây không trực tiếp xuất hiện mà chỉ thể hiện qua những lời nói đầy da diết, hướng đến đối tượng “em”.

Vì vậy, “em” ở đây có thể hiểu là người thương, người mà nhân vật trữ tình hướng đến trong mọi lời tâm sự. “Em không nghe mùa thu”, câu thơ thật da diết nhưng sao cũng thật buồn, thật khắc khoải, em không nghe được tiếng của mùa thu hay em không thể nghe được?

Dù hiểu thế nào ta cũng thấy được khoảng cách trong cách cảm nhận của nhân vật trữ tình và “em”. Mùa thu thường đi vào trong thơ văn với cảm xúc buồn thương bởi sự chia phôi, nhạt nhòa như chính cảnh sắc mùa thu khắc tạc vào lòng người. Trong không gian mùa thu được gợi mở một cách gián tiếp ấy, hình ảnh ánh trăng cũng hiện ra thật đặc biệt, nó vẫn đẹp như vậy nhưng không gợi niềm hân hoan, vui sướng khi thưởng ngắm. Mà nó lại đẹp lại bởi chính vẻ u sầu “Dưới trăng mờ thổn thức”, câu thơ gợi cho chúng ta liên tưởng đến không gian của một đêm trăng mùa thu, và cũng như chính cái mùa của sự phôi phai thì ánh trăng cũng nồng đượm nỗi buồn. Hay chính tâm trạng buồn của nhân vật trữ tình đã nhuộm cho ánh trăng một vẻ u sầu như vậy. Nhà thơ đã sử dụng từ “thổn thức” để miêu tả ánh trăng, như vậy Lưu Trọng Lư đã xem vầng trăng như là một hiện thân của tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình.

Nó không còn là một vật thể vô tri vô giác của tự nhiên nữa mà đã chan chứa những xúc cảm của một con người, đặc biệt là một con người đang yêu, và phải chịu đựng nỗi đau của sự xa cách đối với người mà mình yêu. Ánh trăng mờ gợi cho ta liên tưởng đến một đôi mắt long lanh, ngấn lệ của một con người đa tình, đang nhớ nhung trong đau khổ, mong chờ. Và chính những giọt lệ trực trào ấy đã khiến cho mọi thứ trở nên nhạt nhòa, không thể nhìn rõ nét, chân thực.

Hai câu thơ đầu gợi cho ta liên tưởng đến một đôi lứa yêu nhau, nhưng dường như họ bị ngăn cách, không thể gặp nhau. Vì vậy mà dù làm gì thì cũng nhớ, cũng mong đến đối phương.

“Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người chinh phụ”

Theo dõi dòng tâm sự của nhân vật trữ tình, ta cảm nhận được sự cô độc trong tâm hồn, vì dù có đặt ra những câu hỏi, những sự trách móc đầy tình cảm, nhưng dường như cũng chỉ là tự độc thoại với chính mình.

Vì không nghe âm thanh thu về, nên em cũng không cảm nhận được cảm giác rạo rực, không cảm nhận được sự da diết trong cảm xúc, trong tình cảm “Em không nghe rạo rực”. “Rạo rực” chính là sự bồi hồi, đắm say của con người trước những niềm vui, niềm hạnh phúc.

Và sự rạo rực này được nhà thơ Lưu Trọng Lư liên tưởng đến hình ảnh của người chinh phụ và người chinh phụ. Giữa họ gắn kết bởi tình cảm vợ chồng gần gũi, tha thiết. Nhưng, cũng chính sự tha thiết, nồng thắm ấy mà khi chia li không tránh được cảm giác đau đớn, mất mát.

Đó chính là hình ảnh mong chờ, khắc khoải của người chinh phụ khi mong ngóng từng chút tin tức về người chồng của mình nơi xa trường. Nỗi nhớ thương ấy càng bị đẩy lên cao trào khi biết nơi người chồng ra đi, đó chính là chiến trường xa xôi, đầy hiểm nguy mà bất kì lúc nào cũng có thể hi sinh mạng sống.

Hiểu như thế, ta có thể thấy sự rạo rực mà nhà thơ Lưu Trọng lư nói đến ở đây không chỉ là sự cháy bỏng của tình cảm mà còn là sự đau đớn, lo lắng sự cách li có thể bất chợt ập đến.

Hình ảnh người chinh phụ và chinh phụ trong câu thơ, gợi cho chúng ta liên tưởng đến hình ảnh người chinh phu và chinh phụ trong bài thơ “Chinh phụ ngâm khúc” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.

Ở đó thì hai người bị chia cắt tình yêu đôi lứa, mỗi người mỗi ngả, người ở hậu phương, kẻ ở tiền tuyến. Mong ngóng tin tức của người chồng nên người chinh phụ không một phút giây thôi mong ngóng, trông chờ.

“Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc”

Mùa thu khiến cho những chiếc lá trên tán cây xanh trở nên héo tàn và bay theo làn gió, chỉ để lại những cành cây khẳng khiu. Đây là một hiện tượng tự nhiên của đất trời, nhưng khi đi vào những trang thơ văn thì nó lại trở thành biểu tượng của sự phôi pha, tàn úa, biểu tượng của sự chia li. “Em không nghe rừng thu”, câu thơ vẫn là cấu trúc “Em không nghe…” được lặp đi lặp lại, thể hiện sự bộn bề của cảm xúc của nhân vật trữ tình.

“Rừng” là nơi sinh trưởng và phát triển của cây xanh. Nhưng đồng thời nó cũng là thế giới tình cảm phong phú của nhân vật trữ tình, nơi mà những tình cảm yêu thương, mong nhớ bén rễ và phát triển tươi tốt.

Nhưng vào mùa thu, những cây xanh đã rụng lá, giống như thế giới tâm hồn của con người khi thu đến, đó chính là những cảm giác mất mát không tên của cảm xúc, làm khắc khoải, xao động mạnh mẽ trong tâm hồn.

“Lá thu kêu xào xạc” ta có thể hiểu đây là hình ảnh tả thực, đó là những chiếc lá rụng, khi có những cơn gió thổi qua tạo ra âm thanh xào xạc.

Nhưng đặt nó trong mối quan hệ với tâm trạng của nhân vật trữ tình thì ta lại có những cảm nhận khác. Tiếng xào xạc của tiếng lá đồng thời cũng là tiếng lòng đầy ngổn ngang của nhân vật trữ tình, mà bất cứ tác động gì, dù là nhỏ nhất cũng khiến cho tâm hồn trở nên thổn thức, đau đớn.

Tiếp đó là hai câu thơ cuối, nhà thơ đã sử dụng những hình ảnh ngỡ như chẳng có chút liên quan đến mạch nguồn cảm xúc, nhưng đây chính là cái chân thực trong cảm nhận, liên tưởng của nhà thơ, thể hiện những ý niệm đầy độc đáo:

“Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”

Đang viết về hình ảnh của khu rừng mùa thu, về những chiếc lá khô bay xào xạc, hình ảnh thơ đột ngột chuyển qua hình ảnh chú nai vàng ngơ ngác “Con nai vàng ngơ ngác”. Người đọc cũng không khỏi thắc mắc, tự hỏi rằng liệu hình ảnh con nai có liên kết, mối liên hệ gì đặc biệt gì đối với toàn bộ bài thơ hay không. Hay đây chỉ là sự chọn lựa đầy vô tình của Lưu Trọng Lư.

Nhưng nếu nhìn nhận ở một khía cạnh khác, ta lại có cảm giác hoàn toàn khác biệt. Con nai thường gợi liên tưởng đến sự ngây thơ, trong sáng. Và tình yêu cũng vậy, dù có bao nhiêu đau khổ thì nó cũng mãi đẹp như vậy, trong sáng như vậy.

Câu thơ “Đạp trên lá vàng khô” lại thể hiện được sự kiên định cùng niềm tin bất diệt của nhân vật trữ tình của nhân vật trữ tình. Bởi dù có những bộn bề, đau đớn, mất mát thì chỉ cần còn tồn tại một thứ gọi là tình yêu thì có thể vượt qua mọi giới hạn, thử thách.

Như vậy, bài thơ “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư vừa gợi mở cho người đọc một bức tranh mùa thu đẹp nhưng cũng mang đến cảm giác man mác buồn. Đồng thời, qua bức tranh ngoại cảnh lại soi sáng được bức tranh tâm hồn của nhân vật trữ tình, đó là một con người đa tình, luôn đau đáu trong lòng những nỗi nhớ, những khắc khoải, trăn trở về tình yêu. Và tình yêu đó dù có những xa cách, có những bất đồng về cảm nhận nhưng vượt lên tất cả, tình yêu ấy được Lưu Trọng Lư khẳng định với tất cả sự thiêng liêng, to lớn của nó.


Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư - Mẫu số 7

Trong thơ văn xưa và nay, hình ảnh mùa thu thường xuất hiện trong mạch nguồn cảm xúc của nhiều các nhà văn, nhà thơ. Mùa thu gợi ra cho con người những cảm xúc buồn man mác, gợi ra sự chia phôi, mất mát. Vốn là một đề tài đã quá quen thuộc, lại được chắp bút thành công bởi rất nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Nhưng, không để cho cái quen thuộc, thành công ấy cản bước, cũng bắt nguồn cảm xúc từ mùa thu, nhưng nhà thơ Lưu Trọng Lư đã không đi vào những khía cạnh quen thuộc mà thi nhân xưa đã khai thác, ông lựa chọn cho mình một phương thức biểu đạt mới, một cách cảm nhận mới lạ đầy tinh tế. Và sự thành công, mới lạ này được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Tiếng thu”.

Nhà thơ Lưu Trọng Lư vốn là một trong những cây bút tiên phong cho phong trào thơ Mới ở Việt Nam. Thơ của ông không cầu kì trau chuốt, mà thơ của Lưu Trọng Lư hay bởi chính cái chất liệu bình dị mà nhà thơ xây dựng lên nó.

Hiện lên trong thơ Lưu Trọng Lư thường là những hình ảnh gần gũi, thân quen do đó nó bình dị mà đầy sức gợi, đơn sơ mà đầy tính tạo hình. Bài thơ “Tiếng thu” vừa là một bức tranh mùa thu đầy thi vị, vừa là bức tranh tâm trạng của nhân vật trữ tình tha thiết, xúc động lòng người. Ngay ở phần mở đầu bài thơ, nhân vật trữ tình xuất hiện cùng với những lời tâm sự chân thành, đầy da diết:

“Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?”

Câu thơ như vừa như lời tự hỏi, vừa như lời trách móc đầy tình cảm của nhân vật trữ tình đối với người mình yêu. Trong tình yêu, những đôi lứa yêu nhau thường mong muốn có những phút giây riêng tư, hạnh phúc bên nhau để cùng cảm nhận những dư vị tươi đẹp, chia sẻ những phút giây hạnh phúc khi đón nhận những đổi thay của cuộc sống.

Ở đây, mùa thu đến nhưng đôi lứa lại không ở bên nhau, mỗi người ở một nơi. Và chính khoảng cách địa lí đó đã vô tình tạo ra khoảng cách trong tâm hồn, vì xa cách mà chàng trai băn khoăn trăn trở trách móc “Em không nghe mùa thu”.

Có lẽ trong cảm nhận của chàng trai giờ đây tràn ngập cảm xúc, tư vị của tình yêu dành cho cô gái. Nhưng vẫn băn khoăn rồi đi đến khẳng định, cô gái không “nghe” được, cũng tức là không cách nào cảm nhận được tấm chân tình của mình.

Mùa thu thường gợi cho người ta cảm nhận về nỗi buồn, những nỗi buồn man mác bởi chính sự nhạt nhòa, phôi pha của cảnh vật. Và trong không gian ấy thì đối với những đôi lứa yêu nhau nhưng không thể ở bên nhau lại càng thêm khắc khoải.

“Dưới trăng mờ thổn thức”, vì em không nghe thấy mùa thu nên em cũng không thể cảm nhận được ánh trăng mờ, điều đặc biệt là ánh trăng vô tri vô giác ấy được nhà thơ Lưu Trọng Lư khoác lên nó màu sắc của các giác quan, nên dưới ánh trăng mùa thu, hay nói đúng hơn là dưới sự cảm nhận của nhân vật trữ tình thì ánh trăng cũng đượm buồn “thổn thức”, đó là màu sắc ánh trăng hay cũng chính là màu sắc tâm trạng bi ai của nhân vật trữ tình ấy.

“Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ”

Tình cảm nồng nàn, đắm say, rạo rực vốn là những cảm xúc thuộc về tình yêu, và để có được những cảm xúc đấy thì có điều kiện tất yếu là những đôi lứa phải được ở gần nhau, ở cạnh nhau. Và trong bài thơ này, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã nói đến cái rạo rực, tha thiết trong tâm hồn nhân vật trữ tình.

Nhưng cái đặc biệt là cái rạo rực ấy hoàn toàn đơn phương. Bởi cô gái không cảm nhận được, không nghe thấy “Em không nghe rạo rực”. Nhà thơ đã điệp lại cấu trúc “Em không biết” như diễn tả cái dạt dào trong cảm xúc. Và sự rạo rực này được nhà thơ gợi tả sinh động thông qua gợi nhắc đến cặp hình tượng người chinh phu và chinh phụ.

Thông qua cặp hình tượng này, người đọc dường như liên tưởng đến hoàn cảnh cách biệt của đôi phu phụ trong bài thơ “Chinh phụ ngâm” của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Người chinh phu ở nơi chiến trường xa xôi, người chinh phụ thì mong ngóng, trông chờ tin tức của người chồng. Cái rạo rực ở đây chính là nỗi nhớ đến cháy bỏng cùng với nỗi thấp thỏm, khắc khoải không yên.

Vì nơi người chồng ra đi là nơi chiến trận, hiểm nguy luôn rình rập, tính mạng có thể bỏ ngỏ bất cứ lúc nào. Vì vậy tình yêu thương cùng tâm trạng lo lắng, mong chờ, tạo ra cảm giác rạo rực khôn nguôi. Ở đây nhà thơ Lưu Trọng Lư mượn cặp hình tượng này để nhấn mạnh nỗi nhớ của mình dành cho cô gái. Đó là tình cảm rạo rực, khắc khoải khôn nguôi.

“Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc”

Vẫn là điệp khúc “em không nghe”, được lặp lại đến lần thứ ba, gợi liên tưởng đến dòng tâm sự dạt dào như thác tràn ra trên mặt giấy. Ngay từ những câu thơ đầu, nhân vật trữ tình đã mặc định là cô gái không nghe thấy mọi sự đổi thay của trời đất, hay đúng hơn là những tâm sự triền miên, khắc khoải trong tâm trạng của mình.

Và không nghe không phải cô gái vô tình, không muốn nghe mà do hoàn cảnh cách li, nên cô gái không thể lắng nghe mà cũng không thể cảm nhận đến tận cùng cái dạt dào ấy. “Em không nghe rừng thu”, không gian được gợi mở ở đây chính là không gian rừng thu, nơi chứa đựng, sinh sôi của vạn vật. Đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ của thế giới tâm hồn của chàng trai.

Trong rừng thu ấy, tiếng lá rơi rụng mang đến những âm thanh xào xạc. Nó gợi ra những nét tương đồng trong tâm trạng của nhân vật trữ tình. Và trong thế giới tâm hồn đầy phong phú, nhạy cảm ấy, tiếng lòng của chàng trai càng trở nên rõ nét hơn bao giờ hết.

Những rung động, những âm thanh đầy hỗn loạn trong thế giới ấy là do cô gái, đối tượng tình ái của chàng trai ấy. Bởi không chỉ có yêu thương, không chỉ có cái rạo rực, da diết mà còn có chút giận hờn, trách móc…những tư vị đặc biệt chỉ có thể có khi tình yêu đích thực nảy nở, bám rễ trong tâm hồn.

Từ đầu đến cuối đều là những độc thoại của nhân vật trữ tình với chính mình, những câu nói hàm chứa sự giận hờn, trách móc ấy cũng chỉ đặt ra rồi tồn tại khắc khoải, trăn trở trong chính tâm hồn đầy nhạy cảm ấy. Cô gái không hề xuất hiện, cũng không thể xuất hiện, do đó đọc những dòng tâm sự của chàng trai dành cho cô gái, độc giả không khỏi bồi hồi, xúc động.

Tình yêu đó thật mãnh liệt, thật đẹp đẽ, trong sáng biết bao. Đẹp bởi nó đủ mạnh để chàng trai kiên định, đấu tranh để bảo vệ tình yêu ấy. Đẹp bởi dù có những tổn thương không mong muốn thì chàng trai vẫn theo đuổi đến cùng tình yêu của đời mình. Và lời tuyên ngôn ấy cũng thể hiện qua hai câu cuối của bài thơ:

“Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô”

Ở hai câu thơ cuối này, người đọc bỗng thấy hoài nghi bởi sự xuất hiện không mấy liên quan của hình ảnh con nai vàng, bởi từ đầu chỉ có những sự vật gợi ra cái trống vắng của cảnh vật thì ở đây hình ảnh con nai xuất hiện bỗng làm cho bức tranh thơ trở nên sinh động, màu sắc hơn. Cũng làm cho bức tranh tâm hồn những điểm sáng của hi vọng, bởi sự trong sáng, ngây thơ, ngơ ngác của con nai cũng chính là cái tươi mới, trong sáng của tình yêu chân chính. Vì vậy mà dù có bao trở ngại, có những cách ngăn thì tình yêu vẫn đủ lớn để vượt lên trên tất cả “Đạp trên lá vàng khô”.

Như vậy, bài thơ “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, vừa là bức tranh mùa thu dù đẹp nhưng mang những nét đượm buồn; cũng vừa là bức tranh tâm trạng đầy sống động của nhân vật trữ tình. Và sự vận động của tâm trạng ấy cũng khiến người đọc không khỏi xúc động, bồi hồi. Từ những cách ngăn trong tình cảm thì dòng cảm xúc ấy vẫn dần lớn lên. Và khi đã đủ “chín” thì tình yêu ấy vươn lên mọi hoàn cảnh, trở ngại để trở thành bất tử.


Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư - Mẫu số 8

Như một phút chợt dừng trong trường tình phiêu lưu của Lưu Trọng Lư, Tiếng thu dội lên âm thanh day dứt của một thời bơ vơ xa xưa. Va còn vọng mãi đến bao giờ?

Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

Hình ảnh người chinh phụ

Trong lòng người cô phụ?

 

Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô.

Bằng hình thức kết cấu cú pháp. Điệp ngữ phủ định và câu hỏi tu từ, bài thơ Tiếng thu đã được Lưu Trọng Lư thể hiện tới toàn bích trong hơi thở thấm đẫm của văn học lãng mạn thời Thơ Mới. Nhà thơ Nguyễn Vỹ từng viết: “Lưu Trọng Lư bước vào làng thơ Việt Nam, gót chân lơ đễnh, cặp mắt ngơ ngác, nụ cười xa vắng, tay cầm một quyển truyện mỏng của anh vừa in xong, nhan đề Người sơn nhân. Một quyển truyện?

Thật ra, không hẳn là một quyển truyện. Nhan đề Người sơn nhân cũng không hẳn là sơn nhân. Có thể gọi đó là một bài thơ cũng được. Và có thể đổi nhan đề là Người thi nhân cũng được Lưu Trọng Lư đâu có biết Lưu Trọng Lư là thi sĩ. Lưu Trọng Lư cũng không biết Lưu Trọng Lư là Lưu Trọng Lư… Dễ thương làm sao?”

Còn nhà phê bình Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam thì viết: “Ở đời này, ít có người lơ đãng hơn. Thi sĩ đời nay họ khôn lắm, có khi ranh nữa. Và yêu thơ, thường ta chẳng nên biết người. Thiệt thòi cho họ và thiệt thời ngay cho mình. Những yêu thơ Lư mà quen Lư thì vô hại, vì đời Lư cũng là một bài thơ. Nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là mời ké ngơ ngơ ngác ngác chân bước chập chững trên đường đời, thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết.”

Có lẽ thế nên khi viết riêng về Tiếng thu, mặc dù có ý rằng Lưu Trọng Lư ảnh hưởng một bài thơ Nhật Bản, Nguyễn Vỹ vẫn cứ cho rằng thơ Lưu Trọng Lư đâm đặc chất thi sĩ hơn và vì thế có ý ở trên sự tả hơn bài thơ tả cảnh của nhà thơ Sumaru từ thế kỷ VIII của Nhật Bản. Ông viết: “Lưu Trọng Lư là một ảnh tượng lơ lửng trong thời gian.

Mảnh tim của anh bay vời vợi trên khung xanh như con thều giấy, đính vào trần gian bằng một sợi tơ mỏng manh, chập chờn trong gió, vi vu trong mây. Cho nên thơ của Lưu Trọng Lư cũng phảng phất một hơi thu, một nắng hè thu mát, một khói lam chiều, một thuyền mơ phiêu dạt, một hơi tiêu man mác, một tiếng hước của con nai vàng xào xạc trên lá vàng khô…”

Ta thấy điều khác nhau ấy thật rõ ràng khi điệp ngữ phủ định “Em không nghe” được sử dụng làm môtíp chính để phát triển toàn bộ cảm xúc của tác giả. Hai lần “Em không nghe” ở khổ đầu và khố tiếp theo với các hình ảnh “trăng mờ”, “chinh phụ”, “cô phụ” đã gợi ra không khí quạnh vắng cổ điển của Chinh phụ ngâm.

Tự nhiên làm ta nhớ đến câu thơ “Mặt chinh phụ trăng dọi dọi soi”. Tiếng thu ở đây được phát hiện như tiếng thở khẽ của nỗi cô đơn. Câu hỏi tu từ được tác giả sử dụng để gợi ý định hướng độc giả lắng nghe về phía cô đơn ấy mà tác giả không trực tiếp trả lời.

Từ một ánh trăng mờ đầy ấn tượng thổn thức đến nỗi mong nhớ chồng rạo rực của người đàn bà cô độc trong căn phòng mang một màu ẩm tối, lần “Em không nghe” cuối cùng mới hướng độc giả tới nỗi bơ vơ cùng cực. Ở khổ kết này, sau phương thức chuyển nghĩa nhân cách hoá ở câu thứ hai: “Lá thu kêu xào xạc”, nỗi bơ vơ được chiếc lá mùa thu kêu lên như người, thì sự nhân cách hoá nói trên.

Chính tư tưởng của nhà thơ thời Thơ Mới đã khiến cho Lưu Trọng Lư tìm ra chữ “kêu” xuất thần đẩy bài thơ đến tầm cao, vươn tới toàn mỹ. Hai câu thơ cuối được hình thành chuyển nghĩa bằng định ngữ “vàng”. Hai màu vàng đạp lên nhau:

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp lên lá vàng khô?

Đã tạo ra một không gian cô đơn vô bờ bến. Đấy là bước làm mới bất ngờ từ sự tả cảnh ở bài thơ cổ kia. Hai chất màu: “Vàng ngơ ngác” rồi đến “vàng khô” xiết lên nhau, khiến ta nhớ đến Nguyễn Gia Thiều với: “Trải vách quế gió vàng hiu hắt” và Nguyễn Du với: “Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô”. Điều đó đã đẩy tâm trạng độc giả tới sự đồng cảm sâu sắc với tâm hồn của tác giả. Một lối chuyển nghĩa độc đáo khiến tiếng thu thấm sâu vào ta.

Tiếng thu, tiếng của nỗi cô đơn, bơ vơ của con người thời không phương hưởng trong cảnh nước mất nhà tan còn ẩn dấu một dự báo về sự “cùng tắc biến” của xã hội ta thời ấy. Một dự báo về một thời chiến chinh như những thuở xưa. Hãy lắng nghe tiếng thu mà thấy.

Nhờ chất nhạc mạnh mẽ trong bài thơ, Tiếng thu được khá nhiều nhạc sĩ của các thế hệ khác nhau phổ nhạc. Thời tiền chiến thì có Võ Đức Thu Lê Thương. Thời bây giờ thì có Phan Huỳnh Điểu, Hữu Xuân và Hoàng Phức Thắng.

Nghe Tiếng thu được hát lên cũng thấy nao nao xúc động. Nhưng thú thực, khi tự mình đọc Tiếng thu lên để nghe hai màu vàng đạp lên nhau trong tâm tưởng, mới thấy cái tuyệt đỉnh của thơ mà không một sự thêm vào nào làm nó mới được hơn nữa, hay hơn được nữa. quyến rũ như mùa thu.


Cảm nhận về Bài Thơ "Tiếng Thu" của Lưu Trọng Lư - Mẫu số 9

Thi sĩ Lưu Trọng Lư quê ở Quảng Bình, trải qua phần lớn thời gian tuổi trẻ ở Huế trước khi ra Hà Nội từ năm 1954. Ông được xem là một trong những người khởi xướng phong trào Thơ Mới. Thơ của ông không có sự chải chuốt hoa mỹ, nhưng có được sự chân thực trong cảm xúc trong những câu chữ có vẻ là không chọn lọc nhưng lại dễ dàng lay động người đọc.

Tiếng Thu là bài thơ ngắn chỉ 9 câu, nhưng là bài nổi tiếng nhất trong cuộc đời thơ Lưu Trọng Lư, được nhiều người nói rằng là bài thơ “thơ” nhất của Việt Nam, nghĩa là ngoài chất thơ ra thì nó không có gì bấu víu, không cõng thêm sứ mệnh nào khác, nó hoàn toàn trữ tình lãng mạn:

Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ

Lưu Trọng Lư đã mượn không gian, cảnh vật đặc trưng của mùa thu để thể hiện bức tranh tâm trạng chân thực và sống động, sự u buồn và khắc khoải. Bài thơ có những chủ thể trông có vẻ rời rạc và không liên quan gì đến nhau. Ngoài chủ đề chính là mùa thu thì còn có trăng, có chinh phụ chinh phụ, và có con nai vàng ngơ ngác – hình tượng kinh điển trong thi ca.

Khi gộp tất các hình tượng đó lại trong một tổng thể thì nó lại có sức lay động lòng người một cách kỳ lạ, những câu chữ như từng mảng màu quết vào nhau tạo thành một bức tranh mùa thu ảo diệu, vừa gần vừa xa, vừa sáng tỏ lại vừa mông lung, người ta chỉ có thể cảm thấy chứ không thể nói ra được rạch ròi.

“Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ?

 

Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?”

Tiếng thu – đó là tất cả những gì Lưu Trọng Lưu muốn nhắn gửi, bài này và hầu hết những bài thơ mới đều như vậy, thi sĩ không ẩn ý như nhiều người vẫn tưởng. Có điều, đây là tiếng – âm thanh của sự suy tưởng, cảm nhận về nội tâm, về thế giới bên trong của tạo vật, con người, của mùa thu. Hay nói cách khác, đó là sự miêu tả, thể hiện những thanh âm sâu kín, thầm lặng nhưng rất tha thiết, rạo rực của thế giới nội tâm, của linh hồn thiên nhiên và con người, chủ thể hiện hữu của mùa thu.

Ở bài thơ này, tất thảy những hình ảnh, thi tứ quen thuộc trong thơ ca về mùa thu đều được tác giả đưa vào tác phẩm. Bằng sự tinh tế, nhà thơ cảm nhận nó ở góc độ là những âm thanh bên trong, đối lập nó với cái cảnh sắc vốn mơ hồ, tĩnh lặng, chậm rãi, đượm u buồn, của mùa thu muôn thuở (trong thơ ca lẫn đời sống) mà chúng ta vẫn thường thấy, thường gặp. Rồi thổi vào trong cảnh sắc ấy một sức sống riêng, độc đáo, sắc thái đó chỉ có ở Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư.

Cần lưu ý về câu hỏi ở đây, các câu hỏi là cái cớ, cái để khơi nguồn, để từ đó tác giả diễn đạt điều tác giả nghĩ, lý giải về con người, cảnh sắc mùa thu. Hỏi rồi trả lời, trả lời bằng các câu hỏi tu từ, tất thảy thể hiện quá trình khám phá thế giới trong mùa thu của tác giả, và ông đem chia sẻ điều đó với chúng ta qua “Tiếng Thu”.

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh đầy sức gợi, thâu tóm toàn bộ cấu tứ của tác phẩm. Rừng chiều lá vàng rơi khắp lối, những thanh âm xào xạc của lá khô trong khung cảnh tĩnh vắng khiến chú nai vàng ngơ ngác. Sự đối lập rất rõ ràng, và tất nhiên, việc thể hiện động thái của con nai vàng là điểm nhấn của khung cảnh này.

Con nai hoàn toàn “vô tư”, “điềm nhiên” trước những biến đổi của cảnh vật xung quanh, tác giả thể hiện điều đó qua các từ “ngơ ngác”, “đạp trên lá vàng khô”. Và nó góp phần cùng với tiếng lá khô xào xạc xua tan đi cái tĩnh lặng, vắng vẻ của rừng chiều.

Thiên nhiên hòa hợp bằng ý thơ độc đáo: “đạp trên lá vàng khô”. Vậy là, từ sự ngơ ngác, từ tiếng lá xào xạc, chú nai lại tạo nên những thanh âm trong tâm tưởng của người đọc khi nó “đạp trên lá khô”. Ý thơ quá tài tình. Hình ảnh cuối vì thế dẫu không có từ nào thể hiện âm thanh nhưng vẫn tạo nên thanh âm vang vọng trong lòng người đọc. Đó là cái vi diệu của thơ. Cảm ơn người nghệ sĩ ngôn từ Lưu Trọng Lư!

Với cấu tứ hai phần rõ rệt của bài thơ, thì nội dung trọng tâm của tác phẩm nằm ở ba câu cuối của phần đầu, những câu thơ còn lại và cả phần sau chỉ để nêu bật hình ảnh, nội dung trung tâm đó: Cái “rạo rực” xuất phát từ nỗi nhớ mong người chồng chiến trận trong lòng người vợ đang cô đơn chờ đợi.

Nỗi nhớ, niềm khát khao của người vợ là linh hồn, sức sống của bài thơ, nó là nỗi niềm đọng lại giữa vô vàn những “thổn thức” của thế giới dưới vầng trăng thu.

Tương ứng với mỗi phần của bài thơ là một bức tranh, cả hai bức tranh đều lấy mùa thu làm bối cảnh chính, và chúng ta có một bức tranh về con người và một bức tranh về khung cảnh thiên nhiên, rừng chiều. Mỗi bức tranh thể hiện, phản ánh một quy luật: một của cuộc sống – con người, một của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên, rừng chiều phản ánh cái quy luật biến đổi của thiên nhiên theo sự thay đổi của đất trời – thời thiết, mùa.

Quy luật này lặp đi lặp lại đều đặn theo vòng quay thời gian, yếu tố chủ thể không tồn tại, đến chú nai cũng “ngơ ngác” vì nó “không hiểu”, “không biết” tại sao lá lại vàng, lại rơi và kêu xào xạc khi thu về. Tức là sự biến đổi của cảnh vật, thiên nhiên, đất trời là sự mặc nhiên và con nai cũng vậy, là một sinh vật không hề có một biểu lộ cảm xúc nào. Nó “ngơ ngác” hay con người – thi sĩ – “ngơ ngác” vì cái sự điềm nhiên, vô tư của nó?!

Trong khi đó, bức tranh thu thứ nhất, bức tranh về con người lại phản ánh, biểu hiện cái quy luật của tâm hồn, quy luật tình cảm, quy luật tình người. Quy luật đó thể hiện tính chủ thể, là quy luật nội tâm, nó khác với quy luật của thiên nhiên, đất trời. Quy luật đó cũng chính là cái cao quý, đáng quý nhất của con người.

Cái tạo nên sự thống nhất, tính chỉnh thể hay sự đồng điệu của hai bức tranh trong bài thơ chính là ở hai hình ảnh tương đồng: người thiếu phụ cô đơn và con nai lạc lõng một mình giữa rừng chiều đang trút lá. Cấu tứ của bài thơ thật tuyệt, đây cũng chính là một thành công nữa trên cả hai phương diện nghệ thuật lẫn nội dung của bài thơ.

Đào Thu Trang
Đánh giá bài viết
Đặt câu hỏi
icon-make-question icon-make-question