image hoi dap
image hoi dap

Chỉ ra sự thay đổi trong tâm trạng của Thúy Kiều trước, trong và sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân

icon-time1/2/2024

Đoạn thơ Trao duyên là một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng con người tội nghiệp Thúy Kiều. Dưới đây là bài văn Chỉ ra sự thay đổi trong tâm trạng của Thúy Kiều trước, trong và sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân


Mục lục nội dung

Mẫu 1

Nhà thơ Trần Đăng Khoa trong sự nghiệp sáng tác đã từng quan niệm rằng "thơ hay là thơ giản dị xúc động và ám ảnh”. Đúng như vậy cũng như bao môn nghệ thuật khác, thơ ca giúp con người trải nghiệm cuộc sống với những cung bậc tình cảm sâu sắc và một thế giới nghệ thuật độc đáo. Một bài thơ, một đoạn thơ hay chỉ một vần thơ hay luôn là những dòng cảm xúc đầy sức gợi cảm. Nó cuốn hút giữa chân độc giả với một sức mê hoặc đến lạ thường. Có lẽ bởi vậy nên đoạn trích “Trao Duyên” của Đại thi hào Nguyễn Du đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng độc giả.

Nguyễn Du là nhà thơ tài hoa, lỗi lạc của dân tộc Việt Nam. Ông đã để lại vô vàn tác phẩm xuất sắc nổi bật trong đó là tác phẩm “Truyện Kiều”. Qua tên gọi “ Đoạn Trường Tân Thanh” là tiếng khóc, tiếng kêu xé lòng của những số phận tài hoa bạc mệnh trong xã hội phong kiến mục ruỗng thối nát xưa kia. Điều đó thể hiện rõ nét nhất ở đoạn trích Trao duyên, khi mà Kiều phải đau khổ trao đi hạnh phúc riêng tư thầm kín. 

Mở đầu tác phẩm đó là tâm trạng đau đớn, khó có thể diễn tả của Thúy Kiều.  Hai câu thơ đầu là lời nhờ cậy của Thúy Kiều: 

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Từ "cậy” mang thanh trắc tạo âm điệu nặng nề, gợi sự đau đớn, quằn quại vội vã trong nội tâm của Thúy Kiều. Hành động của Kiều là "lạy”, "thưa”, mang sắc thái trang trọng, kính cẩn. Ba từ “Cậy, lạy, thưa” là những từ mà người ở vai dưới nói chuyện với người vai trên. Những từ ngữ này thể hiện sự tôn trọng đặc biệt của Kiều dành cho người em gái mà mình nhờ vả. Dù mình ở vai trên nhưng Kiều không dùng sự ra lệnh đối với em. Tuy trong lòng cô nhiều suy nghĩ, trăn trở nhưng vẫn bình tĩnh xử lí, sắp xếp, thu vén chuyện của mình. Qua hai câu thơ đầu, việc Kiều nhờ em là rất thiêng liêng. Kiều đặt Vân vào hoàn cảnh không thể từ chối. 

Tiếp theo đó là tâm sự tận sâu trong đáy lòng của nàng: 

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai. ”

Nàng như thể hiện được cái nỗi đau xót của bản thân mình khi tình duyên lỡ dở. Và có lẽ thế nàng vừa đau xót cho thân mình vừa đau đớn cho cuộc tình còn dang dở. Chàng Kim ấy vẫn đang chịu tang nơi quê nhà không hề hay biết những chuyện nơi đây. Nàng chỉ mong Vân có thể nối duyên bù đắp những gì của mình vẫn còn dang dở. Chính vì thế mà Kiều mong Vân chấp nhận sự cậy nhờ của mình mà chắp mối tơ duyên với chàng Kim Trọng. Kiều phải lựa chọn một trong hai con đường là "hiếu” và "tình”. Kiều đã quyết định chọn chữ hiếu để đền ơn sinh thành của cha mẹ. Qua đó, người đọc thấy được nàng là một người con hết mực hiếu thảo.

Tâm trạng của Kiều đã có sự dằn xé, mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm, hành động và lời nói: 

“Chiếc thoa với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

"Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền” là những kỉ vật thiêng liêng của Kiều với Kim Trọng. Những kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu “Duyên này thì giữ, vật này của chung” có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm “của chung”, của cả hai chị em. Có thể nhiều người sẽ nghĩ Thúy Kiều ích kỉ vì khi đã quyết định trao duyên đi mà trong lòng vẫn còn muốn giữ lại nhưng cũng dễ hiểu thôi bởi chẳng ai có thể đồng ý san sẻ tình yêu của mình với một người khác. Rõ ràng lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng thì không thể.

Sau khi trao duyên, Kiều tự nhận mình là người mệnh bạc.

“Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”

Bởi lẽ, mất đi tình yêu là mất đi hy vọng. Cuộc đời nàng giờ đây dường như không còn ý nghĩa. Đau đớn hơn, Kiều lại là người chính tay dập tắt mối tình mới nhóm ấy. Điệp khúc “mệnh bạc” này đã gắn chặt với cuộc đời Kiều. Nàng hướng tầm nhìn đến tương lai nhưng tương lai lại càng tuyệt vọng và bế tắc:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin chén nước cho người thác oan”

Từ kỷ niệm ngọt ngào của quá khứ, Kiều đã đưa suy nghĩ hướng đến tương lai. Nhưng thế giới tương lai mà Kiều hình dung là một cuộc sống cõi âm mù mịt, tăm tối. Thúy Kiều trăn trở và tiếc nuối cho mối tình đầu trong trắng với những hẹn thề.

Từ lời tâm sự với Thúy Vân, Kiều chuyển dần sang lời độc thoại với chính bản thân mình. Tiếng thơ cũng chính là tiếng lòng nàng

“Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”

Hiện tại và quá khứ bỗng trở thành hai khoảng thời gian xa lạ. Quá khứ hạnh phúc ngọt ngào bao nhiêu thì hiện giờ đây ngay lúc này nàng chỉ thấy đau đớn đắng cay bấy nhiêu. Đối lập với quá khứ là hiện tại, đó là hiện tại của “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “hoa trôi lỡ làng” gợi sự chia ly muôn vàn xót xa.

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Kiều ý thức được thực tại bẽ bàng, xót thay cho thân phận mình. Nhưng nàng lại nhận tất cả mọi chuyện về mình, mọi lỗi lầm về mình. Cách sử dụng thán từ kết hợp với điệp từ “Kim lang” cho thấy một tiếng gọi đau đớn, níu kéo trong tuyệt vọng. Trong thời khắc đau đớn của tâm hồn, Kiều vẫn hướng tất cả về phía Kim Trọng. Kiều rơi vào bi kịch đau xót của tình yêu nhưng vẫn mang vẻ đẹp cao thượng của sự hi sinh. Cuộc trao duyên từ biệt trở thành cuộc tử biệt sinh ly.

Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” bậc nhất trong thiên “Đoạn trường tân thanh” của cuộc đời Kiều. Với con mắt tinh đời “trông thấu sáu cõi nhân gian”, Nguyễn Du đã tái hiện lại cuộc trao duyên với biết bao cảm xúc ngổn ngang ấy. Qua đó, ta càng thêm hiểu hơn cho Thúy Kiều hiểu hơn cho quyết định trao duyên những tưởng đầy vô lý ấy nhưng lại thấm đượm một tình yêu chân thành mà nàng dành cho Kim Trọng.

Chỉ ra sự thay đổi trong tâm trạng của Thúy Kiều trước, trong và sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân

Mẫu 2

Nguyễn Du là một ngôi sao sáng trên nền trời thơ ca Việt Nam, ông còn là bậc thầy trong cả việc miêu tả nội tâm nhân vật. Nguyễn Du đã viết Truyện Kiều bằng cả niềm say mê của mình, ông còn hóa thân trên từng nhân vật để cảm thấu nỗi khổ tâm tư của con người. Chính vì thế cho nên trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật, đoạn Trao duyên là một trong những đoạn trích miêu tả rõ nhất về diễn biến tâm trạng Thúy Kiều.

Kiều lâm vào tình thế khó xử; không nói không được mà nói ra thì e ngại. Bởi thế nên nàng đắn trước đo sau, băn khoăn, ngập ngừng mãi:

"Cậy em, em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"

Những từ “cậy”, “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” là những từ để chỉ thái độ kính trọng của người dưới đối với người trên thế mà ở đây bị xáo trộn. Thúy Kiều là chị nhưng lại phải cậy nhờ em. Từ “cậy” kia mang ý nghĩa ép buộc.Tác giả đã dùng từ rất khéo léo, muốn nói đến sự cậy nhờ em của Thúy Kiều. Nàng thành khẩn giống như cầu xin em mình để đền đáp tình cảm cho chàng Kim. Nàng cậy nhờ rồi nàng nói lên những lời tâm tư tình cảm của bản thân mình.

Sau cái phút ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ mà dang dở của mình:

"Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề"

Tâm sự về nỗi khó nghĩ, khó lựa chọn giữa tình và hiếu:

"Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.'"

Là người con có hiếu, Kiều đã bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó trả:

"Nợ tình chưa trả cho ai

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan"

Câu thơ cho thấy Thúy Kiều đau khổ biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào! Nhắc tới chàng, Thúy Kiều càng sầu, càng tủi cho thân phận. Chính vì vậy, Nàng van ơn em gái hãy xót tình máu mủ thay lời nước non mà bằng lòng kết duyên với chàng Kim.

Tiếp theo đó là tâm trạng của Kiều trao kỉ vật cho Vân:

"Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung."

Chiếc vành, bức tờ mây là những kỉ vật đơn sơ mà thiêng liêng, gợi quá khứ hạnh phúc của Kiều. Từ "giữ” - của chung”, chung là của Kim, Kiều, nay là của Vân nữa. Câu thơ như tiếng lòng của nàng, sự giằng xé trong tâm trạng Thúy Kiều. Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng. 

Nàng đau đớn, tuyệt vọng, dự cảm không lành về tương lai:

"Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lờ

Rưới xin giọt nước cho người thác oan."

Động đến tương lai chắc chắn mù mịt, nàng đâu còn giữ được sự yên ổn trong lòng phút giây trước đó. Kiều tưởng tượng đến lúc Vân và chàng Kim nên vợ nên chồng, đến cõi hư không mà nàng chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu.

Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độ thoại, nàng đau xót khi nghĩ về Kim Trọng:

"Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây"

Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình, số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi. Kiều tự nhận mình là "người phụ bạc”. Từ cảm thán "ôi” vang lên kết hợp với hai từ Kim Lang, thể hiện tâm trạng tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng. Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác. Nỗi đau đã lên đến tột đỉnh, quá sức chịu đựng của thể xác:

"Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng."

Từng sự dằn vặt hiện rõ trong từng câu từng chữ. Qua đoạn trích trao duyên này Nguyễn Du đã cho người khác thấy nghệ thuật miểu tả tâm lí của mình xuất sắc cỡ nào. Đoạn trích đã thể hiện tấm lòng nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với số phận những người phụ nữ.


Mẫu 3

"Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa"

Nàng không nhờ Vân mà “cậy lời”. Trong lời nói của Kiều không chỉ có sự nhờ cậy mà còn có cả sự nài ép van xin. Từng lời nói đó khiến cho chúng ta cảm thấy Kiều là một người khôn khéo.

Nhưng ở đằng sau đó ta còn nhận ra được cả sự mong ngóng và hi vọng của Kiều. Tuy nhiên cái hay ở trong miêu tả nội tâm nhân vật không chỉ dừng lại ở đó, Kiều không chỉ nhờ cậy Vân mà còn “lạy” rồi “thưa”, đó là nghịch lí. Việc mà Kiều sắp nói ra chắc là việc lớn quan trọng. Kiều đẩy Vân vào tình thế khó xử cho nên Vân vẫn nhận lời. Tâm lí nhân vật được miêu tả đặc sắc cho thấy tâm tư sâu kín của nàng.

"Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em"

"Đứt gánh tương tư” - chỉ với câu này chúng ta đã có thể cảm nhận được cuộc đời đầy bi kịch và éo le của nàng. Cuộc tình của Kim Trọng với nàng còn đẹp đẽ là vậy thế nhưng giờ đây sắp phải chia lìa nhau. Sự đau đớn và xót xa đó cho thấy Kiều bắt đầu hồi tưởng lại những tháng ngày nàng hạnh phúc bên Kim Trọng.

"Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kỳ

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"

Những kỉ niệm về sự hẹn ước và lúc ở bên nhau Thúy Kiều không thể nào quên được. Có lẽ những kỷ niệm về Kim Trọng sẽ không bao giờ nhạt phai trong Kiều. Những ngày tháng vui vẻ, hạnh phúc ấy đến thật nhanh mà đi cũng thật nhanh. Kiều chưa kịp hưởng trọn nó thì hạnh phúc đã vụt khỏi tay nàng.

Bây giờ nàng buộc phải lựa chọn giữa bên tình và bên hiếu. Một bên là hình ảnh cha mẹ và một bên là người yêu. Kiều đã quyết định chọn chữ hiếu để đền ơn cho công sinh thành của cha mẹ. Qua đó cho chúng ta thấy nàng là người hiếu thảo hết mực:

"Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin chén nước cho người thác oan"  

Với Kiều cho dù nàng có chết đi cũng không thể nào quên được lời thề sắt son cùng với Kim Trọng. Kiều thực sự là một co.


Mẫu 4


Thương cha, nàng bán mình, thương người tình, nàng đành cậy em:

"Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em"

Trong dãy từ diễn tả khái niệm nhờ, Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”, tuyệt vời chính xác. Từ “cậy” hàm chứa niềm tin mà người được nhờ không thể thoái thác được. Lại thêm một cử chỉ thiêng liêng là “lạy”. Thuở đời chị lại lạy sống em bao giờ! Mà chỉ để trao duyên. Mối tình với chàng Kim sâu nặng biết chừng nào, thiêng liêng biết chừng nào!

Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em nghe:

"Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai"

Thúy Kiều đã kể nhanh những sự kiện mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến: chuyện gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh, chuyện thề nguyền hẹn ước với Kim Trọng, chuyện sóng gió của gia đình. Nhưng có một chi tiết mà đối với cái trí bình thường của Thúy Vân không bao giờ biết được:

“Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội. Hiếu - tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội ấy là một xã hội tàn bạo. Thúy Kiều đã cay đắng lựa chọn chữ “hiếu”. Mà chỉ có ba điều tồn tại: “Đức tin, hi vọng và tình yêu, tình yêu vĩ đại hơn cả”. Nghe một lời trong Kinh Thánh như vậy, chúng ta càng thấm thía với nỗi đau của nàng Kiều.

Cho nên hi sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng:

"Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây"

Hai chị em đều là “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xuân em hãy còn dài” đau đớn biết chừng nào ! Lời lẽ thiêng liêng của nàng là vì lo cho Kim Trọng, mong sao cho chàng Kim có hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt vọng, nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác, thật là một cô gái có đức hi sinh lớn lao.

Biết là em thuận lòng, nàng trao cho em những kỉ vật giữa nàng và chàng Kim:

"Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung"

Tình cảm dẫu sao vẫn còn là trừu tượng, chữ kỉ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc vành với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Mỗi lời của nàng nặng như chì. Nàng trao duyên, trao kỉ vật cho em mà nàng chửi đời. Cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung được thì có đáng ghét không, có đáng nguyền rủa không? Đấy chính là lời tố cáo vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con người.

Thúy Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn kỉ vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này:

"Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai"

Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ. Bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió…”. Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ.

Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt mình là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:

"Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"

Mỗi lời của nàng là một lời vận vào. Trước nỗi đau đớn xót xa này, nàng chỉ trách mình là “phận bạc”, là "hoa trôi”, những hình ảnh đó làm động lòng thương đến hết thảy chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã “phụ chàng”. Chính tâm lí mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết ngất trong tiếng kêu thương thấu trời:

"Ôi Kim Lang ! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Ngọc Huyền
Đánh giá bài viết
Đặt câu hỏi
icon-make-question icon-make-question