

Đọc hiểu Thư cho Vương Thông (2 đề)
Trả lời câu hỏi Đọc hiểu Thư cho Vương Thông: Văn bản Thư cho Vương Thông thuộc sáng tác nào của Nguyễn Trãi?Dòng nào nói đúng đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp của văn bản? Câu nào sau đây chứa luận điểm của đoạn văn bản 1?
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Đọc hiểu Thư cho Vương Thông - Đề số 1
Kể ra người dùng binh giỏi là ở chỗ biết rõ thời thể mà thôi. Được thời có thể, thì mất biến thành còn, nhỏ hóa ra lớn; mất thời không thể, thì mạnh hóa ra yếu, yên lại nên nguy; sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay. Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trả, thế chẳng phải là bọn thất phu hèn kém ư? Sao đủ để cùng nói việc binh được? Trước đây lòng mưu giả trả, mặt thác giảng hòa, rồi cứ đào hào đắp lũy, ngồi đợi viện binh, tâm tích không rõ, trong ngoài khác nhau, sao đủ khiến ta chắc tin mà không ngờ được? [...]
Nay sức hết kế cùng, quân sĩ nhọc mệt, trong thiếu lương thực, ngoài không viện binh, bảm hờ khu nhỏ mọn, nghỉ tạm thành cho vợ, hả chẳng phải là như thịt trên thớt, cả trong nồi sao? Thế mà lại còn lừa dối dân ta, du điều phi nghĩa. Kìa những kẻ trung thần nghĩa sĩ dầu thời cùng vận ách, nếm mật nằm gai, cũng chẳng chịu mưu đồ kia khác; lẽ nào ngày nay lại chịu tin nghe lời bất nghĩa của bọn các ông?
(Trích Lại thư dụ Vương Thông, Nguyễn Trãi toàn tập, Viện Sử học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1976, tr. 132-134)
* Chú thích: Lại thư dụ Vương Thông là một trong những bức thư do Nguyễn Trãi soạn thảo để gửi Vương Thông trong sự nghiệp phò giúp Lê Lợi đánh quân Minh. Đây là bức thư số 35 trong Quân trung từ mệnh tập, được Nguyễn Trãi viết vào khoảng tháng 2 năm Đinh Mùi (1427).

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Theo tác giả người dùng binh giỏi là người như thế nào.
Câu 3. Chỉ ra chi tiết về "những kẻ trung thần nghĩa sĩ" trong đoạn trích.
Câu 4. Nêu hiệu quả của biện pháp liệt kê trong câu "Nay sức hết kế cùng .....cá trong nồi sao?"
Câu 5. Đoạn trích giúp em hiểu gì về Vương Thông và giặc Minh.
Câu 6. Nhận xét thái độ của Nguyễn Trãi về Vương Thông và giặc Minh
Trả lời câu hỏi
Câu 1.
Phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích: Nghị luận.
Câu 2.
Theo tác giả người dùng binh giỏi là người: biết thời thế.
Câu 3.
Chi tiết "Những kẻ trung thần nghĩa sĩ" trong đoạn trích là: dầu thời cùng vận ách, nếm mật nằm gai, cũng chẳng chịu mưu đồ kia khác.
Câu 4.
Hiệu quả cả biện pháp liệt kê: nhấn mạnh tình tiết, tình cảnh của quân giặc đang khó khăn và thiếu thốn so với lực lượng của nghĩa quân Lam Sơn.
Câu 5.
Qua đoạn trích em hiểu Vương Thông và giặc Minh là những kẻ gian, xảo quyệt, giả dối và không nắm rõ thời cơ và còn thường xuyên giở trò lừa bịp với nghĩa quân Lam Sơn.
Câu 6.
Thái độ của tác giả Nguyễn Trãi về Vương Thông, giặc Minh là thái độ lên án, vạch trần bộ mặt thật, phê phán, cương quyết, vừa cương quyết vừa mềm mỏng, lấy chí nhân thay cường bạo để đánh vào tâm lý của quân giặc.
Đọc hiểu Thư cho Vương Thông - Đề số 2
THƯ CHO VƯƠNG THÔNG (1)
Nguyễn Trãi
(Tư không Lê Lễ và thượng tướng Lê Xí (2) đánh nhau với quân Minh ở My Động bị thua. Vua vì sự thất bại ấy mà viết thư cho Vương Thông. My Động là Hoàng Mai động ngày nay).
Tôi nghe: Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy. Cho nên người dùng binh giỏi không lấy sự thắng nhỏ mà mừng, không lấy sự thua to mà sợ. Nay các ông lấy tàn tốt vài nghìn, giữ một thành trơ trọi, lương sắp hết và viện chưa thấy đến, chúng lìa lòng mà quân ngày ít đi, cái thế mạnh yếu được thua, có thể ngồi mà tính được. Huống hồ nước An – nam binh tướng thì nhiều, tâm lực đều nhau, chiến khí càng tinh, sĩ khí càng mạnh, kẻ sĩ trí mưu, các tướng sĩ vũ dũng, chẳng khác cây rừng rậm rạp, răng lược khít nhau vậy. Các ông có thắng một trận nhỏ cũng không thấy là mạnh; mà ta có thua một trận nhỏ cũng không thấy là yếu.
Vừa rồi mấy người kì tướng của ta, tuổi trẻ tính ngông, không theo ước thúc, khinh chiến lỡ cơ, các ông lấy thế làm đắc chí. Nay đem những tướng hiệu ở các nơi Tân Bình, Thuận Hóa, Diễn, Nghệ cùng ở các sở Tiền Vệ, Tam Giang, Xương Giang, Trần Di (3) và Thái đô đốc cùng các quan Tam ty (4) chỉ huy, thiên bách hộ, ước hơn vài trăm người, quân nhân một vạn vài nghìn người, trai gái lớn nhỏ hơn ba vạn người bị các ông làm lầm lỡ, mà so với vài người tỳ tướng của ta, thì ai hơn ai kém, ai được ai thua? Thế mà ông không hề lấy thế làm lo, lại còn giương vây nói mẽ, có khác gì nhà đương cháy mà chim én còn nhơn nhơn vui vẻ cùng nhau, há chẳng đáng cười lắm sao! Vả nay ở miền Lưỡng Quảng nghe tin quân ta thừa thắng ruổi dài, bọn đạo tặc đã nhân dịp mà trỗi dậy. Tích Lịch đại vương(5) đã giữ đất xưng đế, mà binh tượng của ta ngày đêm tiến đánh, Bằng tường(6) Long Châu(7) ta đều lấy được. Nay ông vẫn còn ngày ngày mong đợi viện binh mà nói phao là viện binh sắp đến, thì có khác gì trong mộng nói chuyện mộng không? Lại càng đáng cười lắm!
Ngày trước Thái đô đốc và các chỉ huy thiên vạn hộ(8) cùng các quan phủ huyện châu có bảo tôi đem sự lý trong tờ chiếu của Thái tôn hoàng đế cho lập họ Trần để vào Kinh(9) mà tâu bày và tố cáo việc quan Tổng binh không biết trấn thủ Nam phương(10) lại theo kế của người khác, tự gửi văn thư đi thu binh mã các vệ giả làm giảng hòa rồi thì bội ước để đến nỗi bọn ấy nhao nhao kêu la thất sở. Song tôi nghĩ cứ tờ tâu ngày trước bắt được thì thấy tổng binh đại nhân thực có lòng thành, chỉ vì bọn họ Phương họ Mã làm mê hoặc mới nên nỗi thế. Bởi vậy lời bàn ấy chưa quyết. Nếu ngài nay lại biết theo lời ước cũ, thì nên cho quân về ngay, cùng hòa giải với Thái đô đốc, vừa để thoát khổ can qua cho cho hai nước, vừa để giải mối oán bị bán rẻ của Thái công. Như thế thì trọn quân mà khỏi họa, há chẳng hay sao! Nhược bằng cứ chấp mê mà giữ đến chết không biết biến thông thì cũng như câu Đường Thái Tôn bảo “tận trung vô ích” (hết trung không ích gì) vậy. Vả kẻ đại trượng phu làm việc nên phải lỗi lạc đường hoàng.
Ngài muốn đánh thủy, thì nên bày hết chiến thuyền ở trên sông để quyết tử chiến, muốn đánh bộ thì nên xuất hết binh mã ra đồng rộng để quyết sống mái tromg một hai ngày, không nên chúi ở xó thành, chợt ra chợt vào, cướp lấy củi cỏ, cho thế là đắc sách. Như thế là việc làm của đàn bà con gái, không phả là việc làm của bậc đại trượng phu!
Chú thích:
(1): Trong khoảng tháng 2 tháng 3 năm Đinh Mùi (1427), Vương Thông lợi dụng một vài sơ hở của quân ta, tổ chức ba cuộc phản kích. Quân địch cũng bị đánh lui và bị truy kích đến My động (Hoàng Mai, Thanh Trì, Hà Nội). Nhưng ở đây, hai tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí bị giặc bắt. Vương Thông thổi phồng những thắng lợi nhỏ đó và tiếp tục phao tin viện binh sắp sang để củng cố tinh thần quân lính.
(2): Bị bắt ở My Động, Đinh Lễ bị giặc giết chết, còn Nguyễn Xí thì dùng mưu trốn thoát được
(3): Vệ Trần – di đóng ở ải Trấn- di phủ Lạng Sơn, tức ải Chi Lăng thuộc huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn
(4): Tam ty là cơ quan đứng đầu chính quyền đô hộ của nhà Minh ở nước ta
(5): Tích – lịch đại vương có lẽ là một thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa ở vùng Lưỡng Quảng
(6): Bằng Tường thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), gần biên giới nước ta
(7): Long Châu thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), gần biên giới nước ta
(8): Trong sách in là binh, nhwg có lẽ in nhầm chữ hộ
(9): Tức là Yên – kinh (Bắc – Kinh), thủ đô của nhà Minh
(10): Trong sách in là Bắc phương thì không hợp. Chúng tôi chữa lại làm Nam phương.
Trả lời các câu hỏi
Câu 1: Văn bản Thư cho Vương Thông thuộc sáng tác nào của Nguyễn Trãi?
A. Thơ chữ Hán
B. Văn chính luận
C. Thơ Nôm
D. Tập thơ Môn hoa mộc
Câu 2: Dòng nào nói đúng đối tượng giao tiếp, hoàn cảnh giao tiếp của văn bản?
A. Tướng giặc, khi chúng phản kích và huênh hoang vì chút thắng lợi nhỏ
B. Tướng giặc, khi chúng hung hăng sang xâm chiếm nước ta
C. Tướng giặc, khi chúng chuẩn bị mở các cuộc tấn công lớn
D. Tướng giặc, khi chúng dẫn viện binh tới
Câu 3: Câu nào sau đây chứa luận điểm của đoạn văn bản 1?
A. Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi
B. Thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy
C. Các ông có thắng một trận nhỏ cũng không thấy là mạnh; mà ta có thua một trận nhỏ cũng không thấy là yếu
D. Ta có thua một trận nhỏ cũng không thấy là yếu
Câu 4: Dòng nào nói lên các thủ pháp nghệ thuật trong luận điểm 1?
A. Đối lập, so sánh, ẩn dụ
B. Ẩn dụ, so sánh
C. Hoán dụ, so sánh
D. Nhân hóa, so sánh
Câu 5: Dòng nào nói lên mục đích của luận điểm 1?
A. Đừng nói về mộng tưởng
B. Đừng vội huênh hoang
C. Nên cho lui quân
D. Muốn đánh hãy quyết tử
Câu 6: Câu: “Múc một gáo nước, biển cả không vì thế mà vơi; thêm một gáo nước, biển cả không vì thế mà đầy” dùng cách nói nào? Nhằm mục đích gì?
A. Dùng hình ảnh gáo nước khẳng định thắng lợi của quân giặc quá bé nhỏ
B. Dùng hình ảnh gáo nước, biển cả khẳng định thắng thua vừa rồi là không đáng kể
C. Dùng nghệ thuật đối lập khẳng định ta chỉ tạm thua
D. Dùng hình ảnh biển cả để khẳng định quân ta rất mạnh
Câu 7: Ý nào nói lên mục đích của luận điểm 3?
A. Đừng nói về mộng tưởng
B. Đừng vội huênh hoang
C. Muốn đánh hãy quyết tử
D. Nên cho lui quân
Câu 8: Ở luận điểm 2, tác giả dùng thao tác lập luận chính nào? Có tác dụng gì?
A. Thao tác đối sánh: ta – ông làm nổi bật thế từng bên
B. Thao tác phân tích làm rõ sự ngốc nghếch của tướng giặc
C. Thao tác bình luận để thể hiện sự coi thường binh lực của giặc
D. Thao tác chứng minh để khẳng định quân ta mạnh hơn
Trả lời câu hỏi
Câu hỏi | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 |
Đáp án | B | A | C | A | B | B | A | D |
---------------------------------------------------------
Trên đây là bài Đọc hiểu Thư cho Vương Thông. Hy vọng bài viết trên của Topbee sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện. Chúc các em học tốt môn Văn!