Phân tích cấu tứ và hình ảnh bài thơ Cô lái đò của Nguyễn Bính
Tham vấn chuyên môn bài viết
Giáo viên: Hoàng Thị Dung
- Giáo viên Ngữ Văn với 3 năm kinh nghiệm
Tham vấn chuyên môn bài viết
Giáo viên: Hoàng Thị Dung
- Giáo viên Ngữ Văn với 3 năm kinh nghiệm
Hình ảnh bến – đò có lẽ đã là motip quen thuộc của văn học dân gian Việt Nam. Sau đây, hãy cùng Topbee Phân tích cấu tứ và hình ảnh bài thơ Cô lái đò của Nguyễn Bính để khám phá nét đặc biệt ở bài thơ mang đậm sắc quê hương và này nhé!
Dàn ý Phân tích cấu tứ và hình ảnh bài thơ Cô lái đò của Nguyễn Bính
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Bính
- Giới thiệu nội dung chính của bài thơ Cô lái đò
2. Thân bài
a. Giới thiệu phong cách sáng tác và hoàn cảnh sáng tác bài thơ Cô lái đò
b. Phân tích hình ảnh bài thơ
- Khổ 1: Không khí lãng mạn, hình ảnh lẻ loi, nhớ nhung của cô lái đò trước những hoài niệm.
- Khổ 2: Tiếp nối sự mong đợi đồng thời cho thấy sự chung thủy cô lái đò
- Khổ 3: Sự chấm dứt cuộc tình dang dở, mở ra cuộc sống mới
- Khổ 4: Quyết định mạnh mẽ, quyết liệt của cô lái đò. Mở ra kết thúc sâu săc, mở mẻ
c. Phân tích cấu tứ bài thơ
- Hỉnh ảnh mùa xuân, bến sông và đò
- Ngôn ngữ mềm mại, trữ tình, đầy cảm xúc
- Nghệ thuật ước lệ tượng trưng
→ Khắc họa nên một bối cảnh lãng mạn, bi thương
→ Sự chờ đợi mỏi mòn của cô gái
→ Sự chấm dứt và mở ra kết thúc tươi mới
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của tác phẩm
- Nêu cảm nghĩ của bản thân
Phân tích cấu tứ và hình ảnh bài thơ Cô lái đò của Nguyễn Bính
Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ Mới, ông gây ấn tượng với độc giả từ hồn thơ lãng mạn, luôn hướng về làng quê Việt Nam và những bài thơ mang đậm đà sắc thái dân dã, mộc mạc. Bài thơ “Cô lái đò” của Nguyễn Bính là tác phẩm nghệ thuật đầy chất lãng mạn và bi thương, tác phẩm là câu chuyện buồn, là lời hẹn ước không thành bởi sự xa cách và chờ đợi mỏi mòn.
Cấu tứ bài thơ Cô lái đò của Nguyễn Bính
Khác với những thi nhân khác cùng thời đại đều chọn cho mình phong cách thơ sáng tác tự do, phóng khoáng, Nguyễn Bính lại cho mình một hướng đi khác. Ông luôn đào sâu, khai thác và phát huy một cách xuất sắc nhất những truyền thống, văn hóa dân gian và một tâm hồn nhạy cảm trước thời đại đầy biến động. Thơ ông mang đậm chất quê, giản dị mà đậm hồn dân tộc, ẩn sâu ấy là cái tình, cái lãng mạn thiết tha. Bài thơ “Cô lái đò” được in trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang” được xuất bản năm 1940. Thơ của Nguyễn Bính vốn dĩ đã có duyên với âm nhạc, kết hợp cùng hồn thơ mộc mạc, giản dị, sự hòa quyện giữa giọng điệu quê và lối nói quê, thơ của ông như tiếng đàn bầu du dương, da diết. Nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc vì đồng điệu trước những thanh âm của bài thơ nên đã phổ thành một bài nhạc với ca từ man mác buồn, mang lại âm hưởng dân gian Bắc bộ đã gây dấu ấn trong lòng khán thính giả yêu âm nhạc Việt Nam. Bài thơ “Cô lái đò” là tâm trạng của nhân vật trữ tình trước sự chờ đợi mòn mỏi và nỗi niềm chua xót vì lời thề nguyền đã phai nhòa theo năm tháng.
“Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô gái ở bến sông kia
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước,
Trên bến cùng ai đã nặng thề.”
Hình ảnh bài thơ Cô lái đò của Nguyễn Bính
Bài thơ mở đầu với hình ảnh mùa xuân, là mùa đẹp nhất trong năm mang đến một không khí ấm áp, tươi vui, hy vọng. Nhưng ở tác phẩm, mùa xuân tươi đẹp ấy lại mang đến nỗi nhớ, sự buồn bã da diết. Ngay từ câu đầu tiên đã khiến độc giả có thể hình dung được khung cảnh hoài niệm, sự lẻ loi của nhân vật trữ tình trước cảnh sắc xuân sang. “Bến sông kia” là nơi chứa đựng những kỷ niệm sâu sắc của cô gái. “Lòng cô gái” lẻ loi chờ đợi, nhớ về những cảm xúc, ký ức và chứng kiến sự trôi qua của thời gian. ba xuân trước chính là thời gian ký ức ấy, cô lái đò hồi tưởng lại những hẹn ước, lời thề nguyền cùng người mình yêu trên bến sông ba xuân trước. Khoảng thời gian ba xuân nhấn mạnh sự dài lâu, sự trường tồn và quyết tâm trong tình yêu của cô gái, nhưng sự chờ đợi và chua xót đã phai dần theo thời gian. Lời thề nguyền trên bến sông đã khiến cảm xúc cô lái đò dâng trào, xót xa. Bốn câu thơ với tông màu lãng mạn, buồn bã, tập trung và sự hồi tưởng tha thiết, đã làm cho độc giả chìm trong không khí tràn đầy nỗi nhớ nhung và sự lẻ loi của cô lái đò trước những hoài niệm.
“Nhưng rồi người khách tình, xuân ấy,
Đi biệt không về với bến sông.
Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi,
Mấy lần cô gái mỏi mòn trông.”
Hình ảnh người khách tình đến và đi trong mùa xuân ấy càng tiếp nối và phát triển sự mất mát của cô lái đò. Người khách tình ấy ra đi không lường trước và cũng không trở về nơi đã ước hẹn đã khiến cô gái chơi vơi lạc lõng trước tình yêu này. Thế nhưng, “đã mấy lần xuân trôi chảy mãi” cô gái vẫn mỏi mòn trông đã làm nổi bật lên sự kiên trì và lòng trung thành của nàng trước những khó khăn, thách thức. Đồng thời ấy cũng là đức tính đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam khi đối diện với những khó khăn, trở ngại nhưng vẫn luôn tin tưởng, chờ đợi, trung thành với tình yêu của mình. Khổ thơ là bức tranh của sự chia ly, thời gian tiếp tục trôi, mỗi xuân đến cô gái lại cảm nhận được sự cô đơn, lạc lõng trong tình yêu, nhưng thời gian trôi cũng đã làm nổi bật sự kiên trì, thủy chung của cô lái đò.
“Xuân này đến nữa đã ba xuân,
Đốm lửa tình duyên tắt nguội dần.
Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi,
Cô đành lỗi ước với tình quân.”
Có lẽ tình yêu sẽ không thể trọn vẹn và viên mãn nếu chỉ có một người chờ đợi suốt một quãng thời gian dài mà không nhận được hồi đáp. Hình ảnh đốm lửa tắt nguội dần cũng chính là cảm xúc trong lòng nàng đã vơi dần theo thời gian và có lẽ đã phải đến hồi kết. Đồng thời, hình ảnh đốm lửa tình duyên cũng chính là sự biểu đạt mạnh mẽ, quyết liệt chấm dứt mối tình dang dở, lẻ loi này. “Chẳng lẽ ôm lòng mong chờ đợi mãi” như câu nói cô tự hỏi chính mình, mối tình này có đáng để mình chở đợi mãi như vậy, một sự chờ đợi vô vọng, mỏi mòn trong tình yêu. Thi nhân đã sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, hành động “lối ước” tượng trưng cho sự chấm dứt một lời thề nguyện, mỗi ước nguyện có lẽ mãi mãi không bao giờ thực hiện được. Cô lái đò đành chấm dứt mối tình với người khách tình đã rời đi mãi. Khổ thơ như mở ra một khung cảnh, một cuộc sống mới cho cô lái đò, sự chờ đợi mãi khiến cô gái đau đớn, lạc lõng rồi cũng phải kết thúc, cô phải tự mình chấm dứt và viết tiếp câu truyện cho cuộc đời mình.
“Bỏ thuyền, bỏ bến, bỏ dòng trong,
Cô lái đò kia đi lấy chồng.
Vắng bóng cô em từ dạo ấy,
Để buồn cho những khách sang sông…”
“Bỏ thuyền, bỏ bến, bỏ dòng trong” cho thấy cô gái đã quyết định dừng lại mối tình dang dở ấy, rời bỏ quá khứ cô đơn, lẻ loi. Không thể nói cô gái là người bộc bạc, không thủy chung vì sự chờ đợi của cô đã quá dài và cô độc, một mối tình mà chỉ có cô là người chờ đợi và nhung nhớ. Cô đành đi lấy chồng, bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời mình, ở cùng người trân trọng và thủy chung với mình. Cả bài thơ không hề nhắc đến ngoại hình của cô lái đò nhưng ở 2 câu thơ cuối ta có thể hình dung được cô là người có nhan sắc khiến những người khách sang sông phải buồn và nhớ nhung khi vắng bóng cô em. Cả khổ thơ mang đến một cảm giác buồn man mác khi cô lái đò từ bỏ mọi thứ để đi lấy chồng, khi trên dòng sông ấy, bến đò ấy thiếu vắng hình bóng của cô, nhưng với ngôn ngữ tươi sáng, tích cực đã khiến cho khổ thơ bừng sáng, tràn đầy hy vọng và luôn đổi mới, tạo nên một kết thúc sâu sắc, mới mẻ.
Qua các hỉnh ảnh mùa xuân, bến sông và đò, ngôn ngữ mềm mại, trữ tình, đầy cảm xúc, và nghệ thuật ước lệ tượng trưng đã khắc họa nên một bối cảnh lãng mạn, bi thương. Cả bài thơ là sự nhớ nhung, chờ đợi mòn mỏi của cô gái nhưng đành phải tự mình chấm dứt và mở ra một cuộc sống mới hạnh phúc, viên mãn cho cuộc tình dang dở này.
Bài thơ “Cô lái đò” của Nguyễn Bính là một tác phẩm nghệ thuật đầy sâu sắc và bi thương, điều ấy được thể hiện qua kết cấu thơ chặt chẽ và hình ảnh tươi sáng mà đầy ý nghĩa. Thơ của Nguyễn Bính mang đậm chất quê hương, mộc mạc và giản dị, thổi hồn lãng mạn vào lòng người đọc.