Top 10 bài Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang (Mới nhất 2024)
image hoi dap
image hoi dap

Top 10 bài Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang (Mới nhất 2024)

icon-time13/10/2023
(1 đánh giá)

Tham vấn chuyên môn bài viết

Giáo viên: Hoàng Thị Dung

Cử nhân sư phạm Ngữ Văn

Tham vấn chuyên môn bài viết

Giáo viên: Hoàng Thị Dung

Cử nhân sư phạm Ngữ Văn

Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang Chương trình Sách mới Ngữ văn 11 Kết nối tri thức năm học 2024 gồm 1 dàn ý và 10 bài văn mẫu ngắn gọn, hay nhất và video qua đó giúp các bạn học sinh học môn Văn tốt hơn.


Dàn ý phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang.

1. Mở bài: 

Giới thiệu vấn đề cần nghị  luận ( Cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang) 

2. Thân bài: 


Phân tích về cấu tứ 

+ Cấu tứ trong một không gian sóng đôi, nhan đề Tràng Giang vừa là tên bài thơ, vừa là mạch cảm xúc lan tỏa, chảy tràn trong từng câu chữ.

+ Không chỉ là dòng Tràng Giang thực tế chảy dài trong tự nhiên mà còn là dòng sông dập dìu trong tâm hồn tác giả.

+ Nhà thơ sử dụng trực tiếp những từ ‘’ nước ‘’, ‘’ con nước’’, ... nhưng cũng khéo léo sử dụng gián tiếp thêm các từ ‘’ cồn nhỏ’’, ‘’ bờ xanh’’, ‘’ bãi vàng’’, ‘’ sóng gợn’’..


Phân tích hình ảnh 

+ Hình ảnh mở đầu của bài thơ đó là tác giả mượn hình ảnh của sóng để nói lên tâm trạng của chính bản thân mình.

+ Hình ảnh thơ đậm chất lãng mạn nó thu hút con người vào những vòng cuốn riêng, và tạo lên những ưu tư sâu sắc cho những cảm xúc lãng mạn.

+ Cấu tứ không chỉ dừng lại, người ta nhắc nhiều đến hình ảnh ‘’ củi một cành khô’’. Bên những cái đã trở thành truyền thống, mang tầm vóc lớn là sông, là thuyền, bỗng dưng xuất hiện cái tầm thường, giản dị.

+ Những hình ảnh đó biểu hiện những cung bậc cảm xúc giàu giá trị và nó mang những lời thơ sâu lắng đem lại niềm tin yêu và những khoảnh khắc đáng nhớ trong con người, những hình tượng thơ mang màu sắc của thiên nhiên của dòng sông.

+ Một cái nhìn xa vời đến mọi phía chân trời. Cánh chim như chợ nặng bóng chiều đang ‘’ nghiêng cánh nhỏ’’. Mây lớp lớp đùn lên như những ‘’ núi bạc’’. Cánh chim nhỏ nhoi tương phản với bầu trời bao la. Hoàng hôn phủ mờ Tràng Giang.

+ Cánh chim nhỏ nhoi tương phản với bầu trời bao la.

+ Những cảm xúc khó tả của con người, những tình cảm đó vẫn lặng lẽ, tiếp những bãi vàng, đó là những bãi cát trên biển xanh đó là những dòng sông rợp bóng mát.

3. Kết bài: 

- Tác dụng của cấu tứ cà hình ảnh của bài thơ Tràng Giang

- Tình cảm của nhà  thơ đối với bài thơ


Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang - Mẫu 1

Chu Văn Sơn đã từng nói: “Cảm hứng của bài thơ là cảm hứng không gian. Không gian được trải ra từ mặt sống lên tận chót vót đỉnh trời, không gian được mở ra từ sâu vũ trụ vào tận thăm thẳm tâm linh con người.” Quả thực, cảm hứng luôn được mỗi nhà thơ bố trí, tạo nên những phong cách riêng giúp bài thơ trở nên hấp dẫn, linh hoạt, sâu lắng. Một trong những nhà thơ thực sự thành công phải kể đến Huy Cận và tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nhà thơ là bài thơ Tràng Giang đặc biệt là cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang.

Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang

Nếu như bài thơ “Từ ấy” là bản đàn dạo khúc vui đầu tiên của người cộng sản Tố Hữu khi gặp lí tưởng Đảng. “Từ ấy” được cấu tứ dựa trên một sự kiện quan trọng, có tính chất bước ngoặt trong con đường đời, đường thơ của thi sĩ. Thì bài thơ Tràng Giang được cấu tứ trong một không gian sóng đôi, nhan đề Tràng Giang vừa là tên bài thơ, vừa là mạch cảm xúc lan tỏa, chảy tràn trong từng câu chữ. Tràng Giang có nghĩa là sông dài. Nhưng nó khác với Trường Giang ở chỗ nó rộng lớn. Không chỉ là dòng Tràng Giang thực tế chảy dài trong tự nhiên mà còn là dòng sông dập dìu trong tâm hồn tác giả. Với ý nghĩa dòng sông thực tế trong tự nhiên, tác giả đã sử dụng hình ảnh nước trong tất cả các khổ thơ cả trực tiếp lẫn gián tiếp . Nhà thơ sử dụng trực tiếp những từ “nước”, “con nước”, ... nhưng cũng khéo léo sử dụng gián tiếp thêm các từ “cồn nhỏ”, “bờ xanh”, “bãi vàng”, "sóng gợn’’... Để nói về tầm quan trọng của tứ thơ Tràng Giang, có ý kiến cho rằng thử bỏ tất cả những thứ có liên quan đến sông nước mênh mông chắc chắn sẽ không còn là Tràng Giang nữa bởi ý đồ nghệ thuật và ý đồ tư tưởng của nhà thơ đã không tồn tại. Tràng Giang đã trở thành niềm cảm hứng để Huy Cận tự tin thăng hoa trong từng bức tranh miêu tả cảnh vật. Nếu tiếp cận các tác phẩm với hình ảnh dòng sông trong tâm hồn thì ta lại thấy được góc độ tâm trạng khác. Nó không phải là thiên nhiên hùng vĩ mà lại mang cảm giác trầm buồn đìu hiu, cô đơn vắng vẻ như dòng nước chảy trăm hướng như nỗi buồn sầu trăm ngã. Mỗi khổ thơ là một sự khám phá của tác giả về thiên nhiên và vũ trụ, về cái nhịp nhàng, lặng lẽ của thế giới bên trong con người. 

"Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Hình ảnh mở đầu của bài thơ Tràng Giang đó là tác giả mượn hình ảnh của sóng để nói lên tâm trạng của chính bản thân mình, sóng gợn tràng giang những nỗi buồn man mác. Tràng Giang đó bình thản, suy tư qua bao lớp sóng buồn điệp điệp, qua dòng khơi nước song song, cảm giác buồn lại gửi lại trong văn xuôi, trong từ ngữ gợi hình, trong không gian của vũ trụ mênh mông. Hình ảnh thơ đậm chất lãng mạn nó thu hút con người vào những vòng cuốn riêng, và tạo lên những ưu tư sâu sắc cho những cảm xúc lãng mạn với những lời thơ hay, nói mang những lời tự nói để diễn tả tâm trạng của chính bản thân mình, dòng nước trôi đi qua những con sóng làm vỗ bờ cát càng làm cho hình ảnh thơ mộng và huyền bí hơn, những giá trị to lớn mạnh mẽ mà lời thơ đem lại nó mang chất thơ nhưng lại ngập tràn đượm buồn những cảm xúc. Cấu tứ không chỉ dừng lại, người ta nhắc nhiều đến hình ảnh ‘’ củi một cành khô’’. Bên những cái đã trở thành truyền thống, mang tầm vóc lớn là sông, là thuyền, bỗng dưng xuất hiện cái tầm thường, giản dị. 

Ở đây tác giả đã sử dụng những cụm từ láy như điệp điệp hay song song để diễn tả mức độ tăng lên của sự vật, điệp điệp để diễn tả tâm trạng buồn rầu và nó mang những nỗi buồn lớn lao đến vô tận của con người, những hình ảnh thơ mang đậm cảm xúc cũng đã diễn tả được sâu sắc những hình ảnh mang đậm màu sắc và thi vị của cuộc sống. Cấu tứ Tràng Giang trước hết gợi người đọc một bức tranh về thiên nhiên. Thiên nhiên trải dài xuyên suốt và được sắp xếp theo hệ thống đối lập. Một bên là những hình ảnh cao chót vót, rộng lớn như: sông dài, trời rộng, mây cao, núi bạc, bờ xanh, bãi vàng,.. Một bên là hình ảnh, sự vật nhỏ bé, đơn sơ: con thuyền, cồn nhỏ, bèo dạt,...Hệ thống hình ảnh đối lập này đã tạo nên sự liên tưởng về thân phận con người nhỏ bé, bất lực, bơ vơ không định hướng như bèo dạt hàng nối hàng không biết đi đâu về đâu, như một cách củi khô lạc mấy dòng. Các hình ảnh mang tính tượng trưng xuất hiện khắp các tác phẩm thể hiện nỗi buồn của tác giả. Nhà thơ đã khéo léo mượn hình ảnh thiên nhiên “củi một cành khô’’ , ”bến cô liêu’’, "bóng chiều sa’’,.... để nói lên cõi lòng mình. Các hình ảnh đối lập cũng được xuất hiện liên tiếp như nắng xuống trái với trời lên,... 

Khổ cuối bài thơ là một cách kết hay. Một cái nhìn xa vời đến mọi phía chân trời. Cánh chim như chợ nặng bóng chiều đang ‘’ nghiêng cánh nhỏ’’. Mây lớp lớp đùn lên như những ‘’núi bạc’’. Cánh chim nhỏ nhoi tương phản với bầu trời bao la. Hoàng hôn phủ mờ Tràng Giang. Ở đây câu thơ đã mang đậm cảm xúc về số phận lênh đênh chưa biết đi về đâu của con người, những hình ảnh đó biểu hiện những cung bậc cảm xúc giàu giá trị và nó mang những lời thơ sâu lắng đem lại niềm tin yêu và những khoảnh khắc đáng nhớ trong con người, những hình tượng thơ mang màu sắc của thiên nhiên của dòng sông, những cánh bèo trôi dạt trên dòng sông diễn tả những số phận hẩm hiu không biết đi về đâu của tác giả, một khoảng không gian mênh mông sâu lắng, và những cảm xúc khó tả của con người, những tình cảm đó vẫn lặng lẽ, tiếp những bãi vàng, đó là những bãi cát trên biển xanh đó là những dòng sông rợp bóng mát. 

 Trần Đăng Suyền có câu: “Tràng giang cũng như nhiều bài thơ khác trong tập Lửa thiêng, có một nỗi buồn mênh mang bao trùm cả không gian và như thấm vào trong linh hồn của tạo vật.” Cấu tứ thơ và hình ảnh đã được Huy Cận sử dụng một cách đắc địa, giúp bài thơ trở nên hấp dẫn và gây ấn tượng mạnh mẽ lên người đọc.


Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang - Mẫu 2

Huy Cận, tên gọi quen thuộc trong làng văn hóa Việt Nam, không chỉ là nhà thơ nổi tiếng mà còn là một chiến sĩ cách mạng, người đã để lại những tác phẩm văn chất lượng cao, góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa của đất nước. Trong bài thơ của mình, Huy Cận đã lột tả một cách mạnh mẽ và đầy tình cảm về những thăng trầm của cuộc sống và thời đại. Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh dòng sông Tràng Giang dài lâu, nơi ông tìm thấy nguồn cảm hứng và tiếng lòng của con người. Cảnh sắc hữu tình, dịu dàng nhưng đồng thời chứa đựng nhiều bí ẩn sâu sắc được nhà thơ lựa chọn làm bối cảnh cho tác phẩm của mình. Những sự vật trôi trên dòng sông, tựa như những cảm xúc và khát khao cuộc sống, tạo nên một bức tranh tâm lý sâu sắc về con người và thế giới xung quanh.

Ngôn từ của Huy Cận không chỉ đậm chất nghệ thuật mà còn mang theo một góc nhìn triết học sâu sắc về cuộc sống. Bài thơ được chạm khắc bằng những từ ngữ tinh tế, thiết tha, giúp người đọc cảm nhận được mạch cảm xúc và tâm trạng của tác giả. Sự sáng tạo ngôn ngữ không chỉ nâng cao giá trị thẩm mỹ mà còn làm sâu sắc thêm nghệ thuật thể hiện ý nghĩa của tác phẩm.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Hình ảnh mở đầu của bài thơ đưa ta vào một không gian huyền bí và lãng mạn, nơi tác giả mượn hình ảnh của sóng để thể hiện tâm trạng sâu sắc của bản thân. Sóng gợn tràng giang như những nỗi buồn man mác, và dòng nước trôi đi để lại những cảm xúc và tình cảm đậm chất trong hình tượng thơ. Bằng cách này, tác giả sử dụng sóng như một biểu tượng cho sự tác động của ngoại cảnh đến tâm hồn, làm tăng lên gấp đôi những nỗi buồn và tạo ra một điệu nhấn riêng, mang màu sắc giá trị của sự sống con người.

Hình ảnh thơ lan tỏa chất lãng mạn, thu hút người đọc vào những vòng cuốn của cảm xúc lãng mạn với những lời thơ tinh tế. Sự mộng mơ và huyền bí của hình ảnh sóng, dòng nước trôi qua những con sóng làm vỗ bờ cát tạo ra một không gian thơ mộng và đặc biệt. Hình ảnh của tràng giang, một con sông dài và những tình người rộng lớn đang bị sóng nước mênh mang làm cho tâm trạng trở nên cô đơn và thơ mộng. Tác giả thông qua hình ảnh thơ đã vẽ lên những lời thơ sâu sắc, nâng cao giá trị nghệ thuật của tác phẩm và tạo nên một không khí lãng mạn, huyền bí.

Nỗi buồn mênh mang trong không gian vô tận làm cho tâm trạng trở nên mông lung và đầy ắp những cảm xúc lãng mạn. Hình ảnh thơ không chỉ thể hiện sự cô đơn mà còn là sự kỳ bí và mênh mông của cuộc sống. Cảnh trên dòng sông Trường Giang với những chiếc thuyền trôi qua những dòng nước được mô tả thông qua cụm từ "điệp điệp" và "song song", mang lại hình ảnh của một sự vật mạnh mẽ và tăng lên mức độ của nỗi buồn. Hình ảnh này không chỉ là một cảm nhận về thiên nhiên, mà còn là một biểu tượng cho sự phong phú và nghệ thuật của cuộc sống.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Những làn gió nhẹ vẫn vuốt nhẹ trên dòng sông, tạo nên không khí man mác và làm cho trái tim người đọc cảm nhận những tâm trạng sâu thẳm. Sóng vỗ trên rặng liễu, như những nỗi buồn dịu dàng của con người, đưa đến cho chúng ta những hình ảnh đậm đà giá trị thơ. Trong bức tranh thơ, những gió và sóng không chỉ là hiện thực vật lý mà còn là ngôn ngữ tinh tế của tâm hồn. Những cảm xúc và tình cảm man mác được lồng ghép trong từng câu thơ, tạo nên một không gian thơ mộng, nơi giá trị thơ được tạo ra không chỉ qua những hình ảnh mà còn qua cảm nhận sâu sắc về cuộc sống. Lời thơ như là một bức tranh tĩnh lặng, nơi âm nhạc của làng xa vọng qua những dòng sông, kể lên những câu chuyện chợ chiều và những nỗi buồn chầm chậm trôi đi.

Sự kết hợp của ánh sáng hiu hắt và ánh nắng từ trên cao như là một bức tranh sống động, nó không chỉ mô tả về một không gian tĩnh lặng mà còn chứa đựng những hình ảnh sâu sắc về quê hương, những bến cô liêu dẫn lối dọc theo những dòng sông dài, mỗi đường cong là một câu chuyện buồn, là một khoảnh khắc đọng lại trong tâm hồn. Giá trị thơ của lời thơ không chỉ là ở những hình ảnh đẹp mà nó tạo ra mà còn là ở sự không định hình, sự phiêu bạt và tự do trong cảm nhận và diễn đạt. Đây là một phong cách nghệ thuật độc đáo, thu hút sự chú ý của người đọc và mang đến cho họ trải nghiệm tâm lý sâu sắc. Hình ảnh thơ là những cung bậc riêng, những tâm trạng khác nhau, tạo nên một bức tranh thơ phong phú và đầy sức sống.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cần gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Trong những câu thơ, tác giả đã truyền đạt cảm xúc về số phận lênh đênh, mơ hồ và không biết đi về đâu của con người. Hình ảnh của dòng sông và những chiếc bèo trôi dạt như những hình ảnh tượng trưng, mang đậm giá trị thơ và làm nổi bật sự không chắc chắn trong cuộc sống. Sự lững thững của những chiếc bèo trên dòng sông như là biểu tượng cho sự bất an và khám phá không ngừng của con người trong hành trình sống. Hình ảnh của bãi cát trải dài trên biển xanh và những dòng sông mát lành thể hiện sự bình yên và tĩnh lặng, tạo nên một bức tranh tự nhiên hùng vĩ. Nhưng trong bức tranh đẹp ấy, cảm xúc cô đơn và buồn bã của tác giả vẫn hiện hữu. Bãi cát và dòng sông trở thành những người bạn trung thành trong cuộc hành trình, nhưng cũng là những nhân chứng trầm lặng của những cảm xúc không dễ dàng diễn tả. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm thơ mộng với thiên nhiên và sự biểu cảm tâm hồn, mà còn là bức tranh sống động về cuộc phiêu lưu của con người trong thế giới mênh mông. Các từ ngữ sâu sắc và màu sắc thơ đã làm nổi bật những nét đẹp và đau thương của cuộc sống, tạo nên một không gian văn hóa và tâm linh độc đáo.


Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang - Mẫu 3

Huy Cận, một tên tuổi lớn trong văn hóa thơ Mới của Việt Nam, không chỉ là một nhà thơ tài năng mà còn là một nhà văn có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử văn hóa dân tộc. Bút danh "Huy Cận" không chỉ là cái tên, mà còn là biểu tượng của một tâm hồn sâu sắc, tràn đầy cảm xúc và tầm nhìn vĩ đại về nghệ thuật. Thời kỳ trước Cách mạng tháng 8, thơ của Huy Cận thường đựng đầy nỗi buồn, sầu bi đậm chất da diết và vô tận. Có lẽ, như lời đùa mỉa mai của người ta, ông đã mang theo nhiều nước mắt từ khi còn trong bụng mẹ, khiến tâm hồn ông trở nên sầu não, ảm đạm như thế. "Tràng Giang" là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của phong trào thơ Mới và là điển hình cho phong cách sáng tạo của Huy Cận trong giai đoạn này. Bức tranh "Tràng Giang" không chỉ là một dòng sông thông thường mà là biểu tượng của sự trôi chảy không ngừng của cuộc sống và thời đại. Từ chủ đề này, Huy Cận đã tạo ra một bức tranh thơ sâu sắc và phong cách hết sức độc đáo. Chữ "ang" trong nhan đề không chỉ là một âm vị mà còn là cầu nối đưa người đọc vào một không gian rộng lớn, âm thanh vang vọng, thoát xa trong trời đất. Nhan đề hán việt này cũng tạo nên một không khí cổ điển, trầm lặng, chứa đựng nhiều tâm tư và nỗi buồn sâu sắc.

Câu đầu "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" khơi gợi cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi bâng khuâng, buồn bã, tràn ngập nhiều tâm sự của con người đối diện với vùng trời sông nước bát ngát. Con người như hạt cát nhỏ lẻng lơ, lạc lõng giữa vô vàn, không biết hướng đi, không biết mình tồn tại với ý nghĩa gì trong vũ trụ lớn này. Điều này tương ứng với tâm trạng của Huy Cận, một trí thức tiểu tư sản, trước sự biến động khôn lường của thế giới xung quanh, bị bế tắc và không tìm thấy con đường sáng.

Điểm độc đáo của Huy Cận là khả năng sử dụng ngôn từ phong phú và hình ảnh tượng trưng sâu sắc. Thuyền trôi êm đềm, dòng nước buồn bã khi thuyền cập bến, cành củi khô dạt dào lênh đênh trên sóng nước, còn cồn cát nhỏ và những ngọn gió đìu hiu thổi làm bức tranh thơ trở nên sống động và phong phú. Huy Cận không chỉ đơn thuần là một nhà thơ, mà là một họa sĩ tài ba với bức tranh tâm hồn sâu lắng về cuộc sống và thời đại. Từng chi tiết nhỏ nhưng tinh tế, với ngôn từ đậm chất nghệ thuật, Huy Cận đã xây dựng nên một bức tranh huyền bí, đậm chất lãng mạn, mà qua đó, ông diễn đạt tận cùng nỗi buồn, cô đơn và lạc lõng của con người trước thế sự. Nếu cổ nhân tìm về với thiên nhiên để tìm sự đồng điệu, giao cảm, thì Huy Cận lại dùng thiên nhiên để phản ánh nỗi niềm, để làm gia tăng lên những rung cảm và cảm xúc mới mẻ, hấp dẫn đối với độc giả. Cuối cùng, "Tràng Giang" không chỉ là một bức tranh mỹ thuật mà còn là một chân dung tinh tế về tâm hồn con người và vẻ đẹp của cuộc sống. Huy Cận đã để lại một di sản văn hóa lớn, một kho tàng ngôn ngữ và tư duy văn chương đầy ý nghĩa, làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Tiêu biểu cho sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển của thơ Đường và tính hiện đại, lãng mạn của thơ Pháp, "Tràng Giang" là một kiệt tác thơ mang tâm huyết và sự sáng tạo. Với đề mở "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài", tác giả không chỉ tạo ra một không gian mở rộng với âm vang vững vọng, mà còn mang đến cho tác phẩm một tông màu cổ điển, trầm lặng và sâu sắc. Làm việc với từ ngữ "bâng khuâng", Huy Cận thể hiện nỗi buồn, sự lạc lõng và khát khao tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống.

Những dòng thơ như "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" làm nổi bật sự cô đơn, bất an và khó khăn của con người đối diện với một thế giới rộng lớn, bi thảm. Tác giả, một trí thức tiểu tư sản, đối mặt với sự bế tắc trước thế sự hỗn loạn, tìm kiếm đồng cảm và giao cảm với thiên nhiên. "Tràng Giang" không chỉ là một bức tranh về thiên nhiên mênh mông, mà còn là bức tranh về tâm hồn, nổi loạn và tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Khi bước vào khổ thơ thứ hai, cảnh sông nước mênh mông dường như biến thành một bức tranh mới, với không gian thu hẹp hơn, nhưng nỗi buồn lại trở nên đậm đặc hơn, ôm trọn từng góc cạnh của cảnh vật. Huy Cận tiếp tục sử dụng bút pháp quen thuộc của mình từ thời Đường thi bằng cách liên tục sử dụng các từ láy vần như "lơ thơ", "đìu hiu", "chót vót", để truyền đạt sự cô đơn và hoang vắng của cảnh vật. Câu "Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu" là một hiện thực rõ ràng về sự nhỏ bé và xa cách của những cồn cát, nhưng chúng vẫn rời rạc, thưa thớt, không có vẻ kết nối, trong khi tiếng gió buổi chiều mỏng nhẹ thổi qua làm tăng thêm cảm giác tịch mịch, buồn bã.

Trong bức tranh cô đơn và ảm đạm đó, Huy Cận không thể kiềm chế được việc thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều," như một cố gắng tìm kiếm một chút âm thanh của cuộc sống, âm thanh của con người, dù chỉ là nhỏ nhất để xua tan đi chút cô đơn, trống vắng đang bao trùm. Mặt khác, tiếng vãn chợ xa xăm lại làm nổi bật thêm sự đìu hiu, quạnh quẽ của không gian sông nước, khi mà một tiếng vãn chợ xa xăm cũng trở nên rõ ràng khiến người lữ khách bên bờ sông không thể không chú ý. Điều này thể hiện rõ rằng cảnh thiên nhiên và tâm hồn con người đang ở mức độ cô tịch, vắng vẻ đến mức độ nào. Câu "Nắng xuống trời lên sâu chót vót" tạo ra một khoảng cách xa xăm giữa trời và đất, câu thơ dường như kéo giãn thêm độ rộng của không gian. Mấy từ "sâu chót vót" có vẻ không phù hợp khi miêu tả độ cao của bầu trời, nhưng trong "Tràng Giang," chúng lại trở thành một biểu tượng sâu sắc về khoảng cách giữa đất và trời, làm nổi bật sự nhỏ bé của con người trước sự vô cùng lớn lao của vũ trụ. Khi rời xa tiếng chợ chiều, Huy Cận quay nhìn lại và chỉ còn "Sông dài trời rộng, bến cô liêu," cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, nhưng bến cô liêu trống trải và lạnh lẽo như chính tâm hồn của tác giả.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Khổ thơ thứ ba của "Tràng Giang" không chỉ là một đoạn văn thơ, mà là một bức tranh sâu sắc về nỗi đau, sự cô đơn, và bế tắc của tác giả, tìm thấy trong những hình ảnh đậm chất biểu tượng và hàm súc. Hình ảnh "Bèo dạt về đâu hàng nối hàng" là một phát ngôn mạnh mẽ về sự lênh đênh, vô định của số phận con người trong cuộc sống. Bèo, trong văn hóa cổ điển, thường được coi là biểu tượng của sự phù du, bất an, và cuộc sống lênh đênh. Sự hỏi han "bèo dạt về đâu" thể hiện sự mất mát, tuyệt vọng trước hình ảnh không chắc chắn của cuộc đời. Cụm từ "hàng nối hàng" là một hình ảnh mạnh mẽ về sự kết nối của những số phận, nhưng đồng thời cũng là biểu hiện của sự bế tắc, không có hướng đi rõ ràng, mỗi "hàng" là một số phận, một đời sống, và chúng không thể nối với nhau để tạo ra sức mạnh lớn hơn. Tác giả chọn từ ngữ đơn giản nhưng gần gũi, tận dụng tình hình xã hội lúc bấy giờ để truyền đạt một thông điệp sâu sắc về bế tắc và cô đơn.

"Câu thơ tiếp 'Mênh mông không một chuyến đò ngang'" là một hình ảnh đẹp và đầy ý nghĩa. Nó không chỉ thể hiện cảnh đêm hoang vắng, trống trải của dòng sông, mà còn phản ánh sự trống trải, cô đơn của tâm hồn tác giả. "Không một chuyến đò ngang" không chỉ là hình ảnh về dòng sông bất động, mà còn là biểu tượng cho sự thiếu hụt, vắng bóng của những nỗ lực đoàn kết và hướng dẫn trong cuộc chiến tranh giải phóng. Trong cảnh đêm tăm tối, tác giả không tìm thấy nguồn sáng hy vọng, không có "đò ngang" nào chờ đón, đồng thời cũng làm nổi bật tình cảnh đau đớn, cô đơn của người lính, của những người muốn thay đổi thế giới mà không biết làm thế nào.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

hổ thơ thứ ba của "Tràng Giang" là một đoạn văn thơ đậm chất biểu tượng, nơi tác giả Cù Huy Cận lồng ghép những hình ảnh tuyệt vời để bộc lộ nỗi cô đơn và sự bất lực trước cuộc sống và thời cuộc. Hình ảnh "Bèo dạt về đâu hàng nối hàng" là một tác phẩm nghệ thuật lôi cuốn, ám chỉ sự lênh đênh và vô định của số phận con người trong dòng đời. Bèo, biểu tượng của sự phù du, lênh đênh, được tác giả sử dụng để thể hiện nỗi đau đớn và sự bất lực trước số phận không chắc chắn. "Hàng nối hàng" là hình ảnh tuyệt vời, là biểu tượng của những số phận, mỗi số phận như một "hàng" liên kết với nhau, nhưng cũng làm nổi bật sự bế tắc và đau khổ trong sự liên kết này. "Câu thơ tiếp 'Mênh mông không một chuyến đò ngang'" là một bức tranh hoàn hảo về cảnh đêm u tối, trống trải của dòng sông và sự cô đơn giữa không gian rộng lớn. Sự im ắng của "không một chuyến đò ngang" là biểu tượng cho sự thiếu hụt, vắng bóng của những nỗ lực đoàn kết và hướng dẫn trong cuộc chiến tranh giải phóng. Tác giả giác ngộ một cách chân thực về thực trạng đất nước và con người khi gặp phải những khó khăn và sự cô đơn không lường trước được.

"Không cầu gợi chút niềm thân mật" là lời thở dài về sự thiếu hụt tình cảm và sự hiểu biết trong xã hội. Hình ảnh "Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng" kết thúc bức tranh thơ bằng một tâm trạng yên bình, nhưng đầy ý nghĩa. Sự yên bình đó không phải là niềm an ủi, mà làm nổi bật sự cô đơn và đau khổ của tâm hồn tác giả giữa thiên nhiên tươi đẹp nhưng u tối. Tóm lại, khổ thơ thứ ba của "Tràng Giang" không chỉ là một phần trong bài thơ, mà là một kiệt tác nghệ thuật với những hình ảnh sâu sắc, biểu tượng và ý nghĩa sâu xa, tác giả thông qua từ ngữ tinh tế đã thành công bộc lộ sự bất lực và nỗi cô đơn trước cuộc sống và thế giới xung quanh.


Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang - Mẫu 3

Tiếng "Tràng Giang" như làm truyền đạt âm thanh vang vọng của nỗi buồn tha thiết. Sự lặp lại này như một bản nhạc buồn, khiến cho nỗi buồn trở nên lâu dài và sâu sắc. Những con sóng nhẹ nhàng trên dòng sông mang đến cho không gian một tầng màu tâm trạng "buồn điệp điệp." Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong linh hồn của nhân vật trữ tình. Cụm từ "buồn điệp điệp" làm tăng cường sự khắc khoải, tầng tầng lớp lớp của nỗi buồn, nối tiếp nhau mà không thể giải thoát. Dường như nhẹ nhàng, nhưng lại mang trọng lượng vô tận, thấm đẫm và lan tỏa trong từng cảnh vật.

Trong không gian rộng lớn, mênh mông, hình ảnh của "con thuyền xuôi mái" nổi bật, tạo ra bức tranh của sự lẻ loi, đơn độc. Con thuyền nhỏ bé, trôi dạt theo dòng nước, lênh đênh giống như nhân vật thi sĩ, trống vắng, lẻ loi giữa cuộc sống hối hả, bị xô đẩy và trôi chảy theo dòng đời. Hình tượng này làm cho nỗi cô đơn và sự phó mặc trở nên rõ ràng và chạm đến lòng người, tạo nên một không gian xô bồ, nhưng đồng thời là đẹp đẽ và đầy ý nghĩa.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Câu thơ mở đầu bức tranh thơ "Tràng Giang" không chỉ là một giới thiệu về tên gọi của tác phẩm mà còn là một cánh cửa mở ra một không gian mênh mông, hùng vĩ. Sự lặp lại của từ "tràng giang" và điệp vần "ang" không chỉ tạo ra một âm thanh đặc trưng, mà còn tạo nên một bức tranh tĩnh lặng của dòng sông trải dài. Hai tiếng "tràng giang" không chỉ là tên của một dòng sông, mà còn là biểu tượng của một không gian rộng lớn, mang theo nó nhiều cảm xúc và nỗi buồn. Con sóng nhẹ nhàng trên dòng sông không chỉ là hình ảnh đẹp mắt của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của nỗi buồn. Cách tác giả diễn đạt "buồn điệp điệp" không chỉ là sự lặp lại của từ "buồn" mà còn là sự chọn lựa từ ngữ tinh tế để làm nổi bật nỗi buồn sâu sắc. Từ "buồn điệp điệp" như một âm thanh khẽ nhẹ, nhưng chứa đựng nhiều tầng cảm xúc, làm cho nỗi buồn trở nên thêm khắc khoải và đậm sâu.

Hình ảnh "con thuyền xuôi mái" là biểu tượng của sự lẻ loi và cô đơn trong cuộc sống. Con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước không chỉ là hình ảnh của sự lênh đênh và phiêu bạt, mà còn là tượng trưng cho tâm hồn của người thi sĩ. Người sáng tác đang miêu tả bản thân mình như một con thuyền lẻ loi, trống vắng, bơ vơ giữa dòng đời hối hả. Hình ảnh này không chỉ diễn đạt sự cô đơn của tác giả mà còn đánh dấu một nét buồn nằm sâu trong bức tranh thơ.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Câu thơ lặp lại nhan đề "Tràng Giang," với cách điệp vần tinh tế, mở ra một không gian rộng lớn, với dòng sông trải dài. Hai tiếng "Tràng Giang" như nhấn mạnh và khuếch đại âm thanh của nỗi buồn sâu sắc. Những con sóng nhẹ trên dòng sông tạo nên không khí "buồn điệp điệp," làm tăng thêm chiều sâu cho nỗi buồn trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Cụm từ "buồn điệp điệp" không chỉ làm đậm thêm cảm xúc buồn bã mà còn làm nổi bật sự khắc khoải, lớp lớp, nối tiếp nhau, không có hồi kết. Dường như nhẹ nhàng, nhưng sâu sắc và trầm lắng, nỗi buồn tràn ngập từng khung cảnh.

Trong không gian mênh mông, hình ảnh của "con thuyền xuôi mái" làm nổi bật sự lẻ loi, đơn độc. Con thuyền nhỏ bé, lênh đênh trên dòng nước, tượng trưng cho người thi sĩ, trống vắng, lẻ loi giữa cuộc sống hối hả. Nhưng thuyền không phải chỉ là phương tiện, mà còn là biểu tượng cho sự phó mặc, lặng lẽ chấp nhận sự xô đẩy, chảy trôi của dòng đời. Hình ảnh này không chỉ là sự đẹp đẽ trong cảnh vật mà còn là sự đầy ý nghĩa và sâu sắc, khiến cho người đọc cảm nhận được tầng tầng cảm xúc đan xen giữa con người và thiên nhiên.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều

Câu thơ lặp lại nhan đề "Tràng Giang" không chỉ là việc sử dụng cách điệp vần tinh tế, mà còn là một phép màu đưa người đọc vào một không gian mênh mông với dòng sông trải dài. Hai tiếng "Tràng Giang" như là âm thanh biểu tượng của một nỗi buồn tha thiết, một sự thương cảm sâu sắc. Những con sóng nhẹ nhàng trên dòng sông không chỉ là cảnh đẹp tự nhiên mà còn là hình ảnh của nỗi buồn "điệp điệp." Nỗi buồn của dòng sông không chỉ là nỗi buồn của thiên nhiên mà còn là nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Cụm từ "buồn điệp điệp" không chỉ làm đậm thêm cảm xúc buồn bã mà còn tạo ra một sự khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, như một dòng chảy không ngừng của cảm xúc. Đó không chỉ là cảm giác nhẹ nhàng mà còn là trọng lực nặng nề, thấm đẫm, và lan tỏa từng thước phim của cảnh vật.

Nổi bật giữa không gian lớn mênh mông, hình ảnh của "con thuyền xuôi mái" là biểu tượng của sự lẻ loi, đơn độc. Con thuyền nhỏ bé, lênh đênh trên dòng nước, không chỉ là hình ảnh của một phương tiện giao thông mà còn là biểu tượng của con người, người thi sĩ, đang trống vắng và lẻ loi giữa cuộc sống hối hả. Nhưng con thuyền không chỉ đơn thuần là phương tiện di chuyển mà còn là biểu tượng của sự phó mặc, lặng lẽ chấp nhận sự xô đẩy, chảy trôi của dòng đời. Hình ảnh này không chỉ đẹp mắt trong khung cảnh tự nhiên mà còn chứa đựng sự đầy ý nghĩa và sâu sắc, tạo nên một tác phẩm thơ đẹp đẽ và lôi cuốn.

“Nắng xuống trời lên, sâu chót vót

Sông dài trời rộng, bến cô liêu”

Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá tạo nên một chiều kích mênh mông của không gian trong tác phẩm. Hình ảnh "Sâu chót vót" không chỉ gợi lên sự thăm thẳm và huyền bí mà còn tận dụng chiều sâu của từ ngữ để tăng cường hiệu ứng. Đây không chỉ là một chiều sâu về khoảng cách vật lý mà còn là chiều sâu của tâm hồn, như một vùng trí tưởng không gian mênh mông, đầy những khó khăn và bí ẩn. Mỗi từ ngữ "rộng," "cao," "sâu" đều là những chiều kích tăng cường cho không gian, làm cho cảnh vật trở nên buồn vắng và lẻ loi. Sự mở rộng của không gian khiến nỗi buồn mở rộng theo chiều kích của nó, như một sự thấm sâu vào từng hơi thở.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cần gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo là biểu tượng của sự vô định và lênh đênh. Những chiếc cánh bèo trôi dạt "hàng nối hàng" mà không có nơi nào bấu víu, chẳng chốn trở về, như một hình ảnh ẩn dụ cho những số phận người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng trong thế giới lo lắng và không chắc chắn của thời kỳ đó. Dòng sông mênh mông, dài rộng, không có chuyến đò nào đi qua, không có cây cầu nào bắc ngang, tất cả những điều này như thách thức lòng người khao khát giao cảm, hy vọng một sự kết nối với con người. Tất cả như là một cuộc đối đầu với tâm trạng cô đơn, một sự khát khao sự giao cảm, sẻ chia, mà cuối cùng lại không có một chút tình người nào để chia sẻ.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”.

Bầu trời mênh mông, với những đám mây cao trắng, được phản chiếu dưới ánh mặt trời, tạo nên một bức tranh tuyệt vời với ánh bạc lấp lánh. Động từ "đùn" không chỉ miêu tả sự vận động mạnh mẽ của cảnh vật mà còn thể hiện sự sôi động, hứng khởi. Những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ, như là bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tuyệt vời. Giữa không trung, một cánh chim bé nhỏ nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương, tạo nên hình ảnh cô đơn và duyên dáng. Sự đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ không chỉ làm tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng mà còn thể hiện sự nhỏ bé, yếu đuối của con người trước vẻ đẹp vô tận của vũ trụ.


Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang - Mẫu 3

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam, ông là người chiến sĩ cách mạng và những tâm sự về thời cuộc đã được thể hiện mạnh mẽ trong các tác phẩm của ông, khi ông đang viễn cảnh ngắm những sự vật trôi trên dòng sông Tràng Giang dài sâu thẳm nó biểu hiện những tiếng lòng của con người.

Cả bài thơ là những lời thơ đượm buồn và nó bao trùm lên không gian của cả bài thơ, với lời thơ thiết tha nhẹ nhàng, nó làm nên những giá trị thơ vô cùng mạnh mẽ và da diết, tác giả đã mở đầu bài thơ với cung bậc cảm xúc đậm buồn và mang những nét riêng:

 

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

Hình ảnh mở đầu của bài thơ đó là tác giả mượn hình ảnh của sóng để nói lên tâm trạng của chính bản thân mình, sóng gợn tràng giang những nỗi buồn man mác, dòng nước trôi đi để lại những cảm xúc và tình cảm nồng cháy trong hình tượng thơ, mượn sóng để nói về sự tác động của ngoại cảnh đến tâm hồn của chính mình, những nỗi buồn được nhân lên gấp đôi, nó điệp điệp khúc khúc ngân nga lên những nhịp sống riêng và mang màu sắc giá trị của sự sống con người.

Hình ảnh thơ đậm chất lãng mạn nó thu hút con người vào những vòng cuốn riêng, và tạo lên những ưu tư sâu sắc cho những cảm xúc lãng mạn với những lời thơ hay, nói mang những lời tự nói để diễn tả tâm trạng của chính bản thân mình, dòng nước trôi đi qua những con sóng làm vỗ bờ cát càng làm cho hình ảnh thơ mộng và huyền bí hơn, những giá trị to lớn mạnh mẽ mà lời thơ đem lại nó mang chất thơ nhưng lại ngập tràn đượm buồn những cảm xúc. Tràng giang đây là con sông dài, và những tình người bao la mênh mông đang bị sóng nước mênh mang làm cho có tâm trạng cô đơn thơ mộng. Với hình ảnh thơ hay tác giả đã vẽ ra những lời thơ hay và mang đậm màu sắc, những hình ảnh thơ mang giá trị to lớn để diễn tả những hình ảnh mang chất nhạc buồn.

Nỗi buồn mênh mang cùng với khoảng không gian vô tận làm cho tâm trạng của con người có chút mông lung và đầy ắp những nỗi buồn, những hình ảnh thơ mang giá trị và đậm sức sống nó cũng thể hiện được những tình cảm mạnh mẽ của con người đối với cuộc sống, đối với thiên nhiên. Những hình ảnh trên một dòng sông Trường Giang rộng mênh mang làm cho con người có những cảm giác rất lạ, những con thuyền đang trôi trên những dòng nước. Ở đây tác giả đã sử dụng những cụm từ láy như điệp điệp hay song song để diễn tả mức độ tăng lên của sự vật, điệp điệp để diễn tả tâm trạng buồn rầu và nó mang những nỗi buồn lớn lao đến vô tận của con người, những hình ảnh thơ mang đậm cảm xúc cũng đã diễn tả được sâu sắc những hình ảnh mang đậm màu sắc và thi vị của cuộc sống.

Những con thuyền đang xuôi mái, ở đây nó cũng biểu hiện những trạng thái tự nhiên của những sự vật trên sông, nhưng hình ảnh con thuyền xuôi mái dưới dòng nước, đang có chút gợn sóng, mà sóng ở đây là tác giả thổi hồn mình vào làm cho lời thơ nó có chất buồn và mang những điều kì lạ, khi thuyền cập bến về, thì những dòng nước lại buồn, ở đây tác giả đã nhân hóa lên dòng xong biết buồn, chính dùng biện pháp này để nói lên tâm trạng của chính bản thân mình, những hình ảnh mang giá trị to lớn và vô cùng sâu sắc đối với mỗi người, hình tượng thơ mang những giá trị về sự sống và màu sắc, ở đây mượn hình ảnh của thuyền và dòng sông để nói lên tâm trạng của chính tác giả khi ngắm nhìn dòng sông Trường Giang dài và rộng, những lời thơ mang chất nhạc buồn làm gia tăng lên những giá trị cảm xúc của tác giả, trên dòng sông đó tác giả còn quan sát thấy những cành củi khô đang dạt dào trôi trên những dòng nước, tác giả đã dùng một biện pháp đảo ngữ để nói về số phận lênh đênh chưa biết trôi dạt về đâu của con người, củi một cành khô lạc mấy dòng, với sự sử dụng ngôn ngữ đậm giá trị, nó làm gia tăng lên mức độ biểu cảm của lời thơ đối với cả bài thơ.

 

Tác giả còn quan sát được rất nhiều thứ đang tồn tại xung quanh một dòng sông này, với những hình ảnh của cồn cát nhỏ, những ngọn gió đìu hiu thổi:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Những ngọn gió vẫn đang nhẹ thổi trên dòng sông, làm cho lòng người có những cảm giác man mác, và sóng vỗ trên những rặng liễu và đìu hiu những nỗi buồn man mác của con người, giá trị thơ để lại cho chúng ta đó là những hình ảnh mang đậm giá trị và màu sắc thơ giàu sức biểu cảm nó đã mang lại được những giá trị to lớn, lơ thơ đã nói về mức độ thưa thớt của sự vật hiện tượng, và trong không gian yên tĩnh đó xuất hiện những tiếng của làng xa đang buồn vãn chợ chiều… trên cao tác giả đang ngắm nhìn những ánh sáng hiu hắt và những ánh nắng từ trên cao rọi xuống, hình ảnh thơ thật dài, thơ mộng, và tạo nên những sức sống mạnh mẽ và thu hút lòng người, giá trị của lời thơ mang màu sắc quê hương, những bến cô liêu những dòng sông dài đậm chất buồn và cả cảm xúc về những nỗi nhớ, và sự mênh mang của đất trời.

Những hình ảnh thư mang giá trị to lớn khi nói về những sự phiêu bạt và không định hình, dùng thiên nhiên để nói lên tâm trạng của chính mình, đây là phong cách nghệ thuật độc đáo và thu hút được sự hấp dẫn của người nghe, hình tượng thơ giàu giá trị, nó mang những cung bậc riêng và những tâm trạng riêng biệt sâu sắc dành cho mỗi người:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Ở đây câu thơ đã mang đậm cảm xúc về số phận lênh đênh chưa biết đi về đâu của con người, những hình ảnh đó biểu hiện những cung bậc cảm xúc giàu giá trị và nó mang những lời thơ sâu lắng đem lại niềm tin yêu và những khoảnh khắc đáng nhớ trong con người, những hình tượng thơ mang màu sắc của thiên nhiên của dòng sông, những cánh bèo trôi dạt trên dòng sông diễn tả những số phận hẩm hiu không biết đi về đâu của tác giả, một khoảng không gian mênh mông sâu lắng, và những cảm xúc khó tả của con người, những tình cảm đó vẫn lặng lẽ, tiếp những bãi vàng, đó là những bãi cát trên biển xanh đó là những dòng sông rợp bóng mát.

Cả bài thơ là những lời bộc bạch tâm trạng buồn cô đơn của tác giả, ở đây tác giả đã dùng hình tượng thiên nhiên để diễn tả cảm xúc của mình.


Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang - Mẫu 3

Cù Huy Cận (1919-2005), bút danh Huy Cận là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là một nhà thơ có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam xuyên suốt qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Trước cách mạng tháng 8, thơ Huy Cận thường mang một nỗi sầu bi da diết, vô tận, bao trùm trong trời đất mà người ta vẫn nói đùa rằng lúc mang thai ông hẳn mẹ ông đã phải rơi lệ nhiều nên con trai bà mới có một tâm hồn sầu não, ảm đạm như thế. Tràng Giang là một trong những bài thơ nổi bật nhất trong phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là sáng tác tiêu biểu và xuất sắc nhất đại diện cho phong cách sáng tác của Huy Cận giai đoạn này. Bài thơ nhuốm màu cổ điển của thơ Đường đồng thời cũng mang những nét hiện đại, lãng mạn của thơ Pháp thể hiện sâu kín nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước thế sự khi bản thân tác giả đang bế tắc trước viễn cảnh đất nước đau thương.

Nhan đề “Tràng giang”, là một nhan đề hay khi gợi mở ra không gian rộng lớn bằng cách điệp vần “ang”, tạo cảm giác kéo dài, âm thanh vang vọng, thoát xa trong trời đất, đồng thời nhan đề hán việt này cũng mang đến cho tác phẩm sắc thái cổ kính, trầm lặng, chất chứa nhiều tâm tư, nỗi buồn sâu kín. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, gợi ra cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là nỗi bâng khuâng, buồn bã, chất chứa nhiều tâm sự của con người khi đứng trước một vùng trời sông nước quá đỗi rộng lớn, mà con người lại chỉ như hạt cát nhỏ, lạc lõng, chơ vơ, không biết phải đi đâu về đâu, không biết bản thân tồn tại, trong trời đất này có nghĩa lý gì. Điều đó khiến ta liên tưởng đến hoàn cảnh đầy đau thương của đất nước lúc bấy giờ, Huy Cận bản thân là một trí thức tiểu tư sản, nhưng trước thế sự rối ren lại trở nên bế tắc, không thể tìm thấy con đường sáng, và khi đứng trước sông nước mênh mông, ông lại càng cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Điều đó thực đúng với câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, khi mà cổ nhân tìm về với thiên nhiên để tìm sự đồng điệu, giao cảm, thì Huy Cận lại lấy thiên nhiên mà bộc lộ những nỗi niềm sâu kín, đem đến cho người đọc những rung cảm mới mẻ, hấp dẫn.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Ở khổ thơ đầu tiên ta thấy mở ra là hình ảnh một bức tranh sông nước buồn vắng và ảm đạm, vẻ đẹp cổ điển của bài thơ cũng được thể hiện một cách rõ nét. Hình ảnh “tràng giang” tức là một con sông vừa rộng lại vừa dài, tưởng chừng như kéo dài đến vô tận, thế nhưng lòng sông lại hết sức yên tĩnh, dòng sông lớn thế mà sóng chỉ gợn nhẹ, mang đến cảm giác phẳng lặng, hiu hắt tựa như cảnh “dòng nước buồn thiu” của Hàn Mặc Tử. Không chỉ vậy cái buồn còn được bộc lộ một cách trực tiếp và rõ ràng trong mấy từ “buồn điệp điệp”, tức là cái buồn nỗi buồn, chồng chất lên nhau lẫn vào từng gợn sóng lăn tăn của dòng sông một cách ẩn nhẫn, âm thầm, trông có vẻ mờ nhạt nhưng thực tế lại sâu sắc vô cùng.

Hình ảnh “Con thuyền xuôi mái nước song song/Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, đó là một cảnh tượng gợi ra nhiều nỗi cô đơn, thuyền qua thuyền lại biết bao lần, nhưng chưa chắc một lần thuyền hiểu được nỗi lòng sông, nỗi lòng con nước. Vốn dĩ thuyền – nước hô ứng, phối hợp với nhau ấy nhưng khi vào thơ Huy Cận dường như chúng lại chẳng giao hòa, cứ song song với nhau, rồi “thuyền về nước lại” càng gợi sự chia lìa, xa cách, nghe não lòng, đau xót. Thêm nữa từng con thuyền ấy lại vướng biết bao nỗi sầu, và dường như nó còn chuyên chở cả nỗi sầu mênh mông của người, của cảnh đi khắp trăm ngả, không dừng đợi.

Câu cuối đoạn “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, chính là tâm sự, là nỗi niềm, là thân phận của tác giả. Giữa mênh mông sóng nước như thế, lại chỉ có một nhánh củi khô nhẹ, trơ trọi, đơn độc lênh đênh không biết trôi dạt về đâu. Cũng như chính Huy Cận hoang mang, lạc lõng trước thời cuộc, không có tiếng nói, sức ảnh hưởng, không biết rồi mai đây số phận đẩy đưa, thời thế đất nước sẽ ra sao, bất lực và bế tắc vô cùng. Bên cạnh vẻ đẹp hiện đại khi tác giả khéo léo bộc lộ cái tôi, nỗi buồn cá nhân trước thế sự, thì vẻ đẹp cổ điển còn được in đậm bằng các từ láy “điệp điệp”, “song song”, những từ hán việt “sầu”, “tràng giang” mang đến cho bức tranh thiên nhiên sông nước vẻ đẹp cổ kính, đượm buồn.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Sang đến khổ thơ thứ hai cảnh sông nước mênh mông đã được thay thế bằng một khung cảnh khác, không gian được thu hẹp hơn, thế nhưng dường như nỗi buồn lại càng trở nên đậm đặc hơn, bao trùm kín kẽ từng cảnh vật. Huy Cận tiếp tục sử dụng bút pháp quen thuộc trong Đường thi khi sử dụng các từ láy vần liên tiếp “lơ thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, diễn tả trọn vẹn được sự cô quạnh, hoang vắng của cảnh vật. Ở câu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”, rõ ràng những cồn cát đã nhỏ, ấy thế mà còn rời rạc, thưa thớt, dường như chẳng hề có chút kết nối, thêm tiếng gió buổi chiều hôm mỏng nhẹ thổi lướt qua càng khiến khung cảnh thêm tịch mịch, buồn bã.

Giữa cảnh tượng cô liêu, rợn ngợp ấy, Huy Cận đã không kiềm được phải thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, để mong tìm được một chút âm thanh sự sống, âm thanh của con người, dù là nhỏ nhất chỉ để xua tan bớt đi cái nỗi cô đơn, trống vắng đang bủa vây. Đổi một cách nhìn khác, cái tiếng chợ chiều làng xa ấy, lại càng làm nổi bật nên sự đìu hiu, quạnh quẽ của không gian sông nước, khi mà một tiếng vãn chợ xa xăm cũng trở nên rõ ràng lọt vào tai của người lữ khách bên sông. Điều đó cũng đủ thấy rằng cảnh thiên nhiên và cảnh lòng người đang ở mức cô tịch, vắng vẻ đến độ nào.

Đến câu “Nắng xuống trời lên sâu chót vót”, ta dễ dàng mường tượng ra khoảng cách xa xăm giữa trời và đất, câu thơ dường như càng kéo giãn thêm cái độ rộng dài của không gian. Mấy từ “sâu chót vót” vốn chẳng hợp lý khi đưa vào để miêu tả độ cao của trời xanh, thế nhưng trong Tràng giang thì chỉ có mấy từ ấy mới diễn tả được sâu sắc khoảng cách đất trời, làm nổi bật lên sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ rộng lớn bao la. Và để khi rời ra tiếng chợ chiều, Huy Cận nhìn lại một lần nữa chỉ còn cảnh “Sông dài trời rộng, bến cô liêu”, cảnh sông nước mênh mông, rộng lớn, bến cô liêu chẳng một bóng người lạnh lẽo, hoang sơ và ảm đạm như chính lòng tác giả.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Khổ thơ thứ 3 càng bộc lộ rõ hơn nỗi niềm và hoàn cảnh của tác giả, cảnh sông nước mênh mông, trời cao, đất xa dần được thu lại bằng hình ảnh “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”. Bèo vốn là một hình ảnh quen thuộc trong văn học cổ điển, ám chỉ những kiếp người lênh đênh, vô định, mặc cho dòng đời đẩy đưa, trong thơ Huy Cận hình ảnh “bèo dạt về đâu” chính là một lời tự hỏi, là sự đau đớn trước số phận, trước thời cuộc, khi chính bản thân ông cũng không thể tìm ra một lối đi đúng đắn, dù muốn thay đổi thế sự nhưng chịu bất lực. Mấy từ “hàng nối hàng” chính là cái hay trong thơ Huy Cận, ý chỉ số phận bèo dạt như ông trong xã hội lúc bấy giờ không phải hiếm mà là cảnh ngộ chung của một thế hệ, một tầng lớp những con người yêu nước, có lòng mà không có sức, bế tắc và đau xót vô cùng.

Đến câu thơ tiếp “Mênh mông không một chuyến đò ngang” không chỉ là bộc lộ cảnh tượng hoang vắng, quạnh quẽ của dòng sông, bộc lộ nỗi cô đơn trong lòng, mà còn chính là để nói lên thực trạng đất nước lúc bấy giờ. Giữa cảnh tăm tối ấy, lữ khách muốn tìm một con thuyền, một ngọn lửa sáng để cùng nhau đấu tranh giải phóng dân tộc, thì nhìn lại dòng sông lại im ắng “không một chuyến đò ngang”, không có một tổ chức, một con người nào có thể dẫn dắt đưa lối, kéo những tiểu tư sản trí thức như Huy Cận ra khỏi sự hoang mang, vô định. Sự thực ấy khiến người ta không khỏi xót xa cho một đất nước, một dân tộc, và cả những con người lạc lõng “Không cầu gợi chút niềm thân mật”, cuối cùng họ Huy Cận vẫn phải tự ôm lấy nỗi cô đơn, buồn tủi giữa thiên nhiên rộng lớn mà ảm đạm “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, chứ không còn một cảnh tượng nào khác, một con người nào khác.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Ở khổ thơ cuối, vẻ đẹp cổ điển, lãng mạn trong phong cách sáng tác của Huy Cận càng được thể hiện rõ ràng trong khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ, cùng những chất liệu thơ quen thuộc trong Đường thi. Đó là nét cổ điển với bút pháp chấm phá “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” mây vờn quanh núi từng lớp, từng lớp dày đặc, đầy nội lực, mạnh mẽ với từ “đùn” khiến cho ngọn núi phủ một màu trắng ngà. Dưới ánh nắng mặt trời những ngọn núi ấy trông như được dát bạc, tạo nên cảnh tượng hùng vĩ hiếm có, đồng thời cũng thể hiện sức sáng tạo trong thơ ca của tác giả, với những liên tưởng thú vị. Và trên cái khung cảnh tráng lệ ấy xuất hiện một cánh chim nhỏ bé, lạc lõng “Chim nghiêng cánh nhỏ: Bóng chiều sa”, là chim nghiêng cánh để bóng chiều sà xuống bao trùm khắp không gian, hay là bóng chiều đổ xuống làm nghiêng đi cánh chim nhỏ bé, chao liệng, chất chứa nhiều nỗi cô đơn.

Có thể nói rằng hình ảnh cánh chim luôn là một thi liệu quen thuộc trong thi ca cổ điển, là dấu hiệu của buổi hoàng hôn, của buổi chiều tà, mang đến cho con người những nỗi bâng khuâng, bất định trong tâm tưởng khi nhìn bóng chim bay lưng trời mà chưa thấy một điểm dừng nhất định.

Hai câu thơ cuối cùng dù vẫn dùng chất liệu thơ cổ, thế nhưng nội dung thơ lại đậm tính hiện đại, khi trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ quê nhà tha thiết của tác giả. “Lòng quê dợn dợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, trước những cảnh tượng mênh mông rộng lớn, hùng vĩ đến thế nhưng bản thân người thi sĩ lại cô đơn, không có nổi một chốn cho tâm hồn nương tựa. Trước những nỗi sầu bi bất định như thế, Huy Cận không khỏi nhớ nhà, nhớ quê nơi đã sinh ra, cho lữ khách hơi ấm yêu thương, để vơi bớt đi những quạnh quẽ, chua xót trong lòng. Nỗi nhớ ấy tha thiết đến độ không cần đến “khói hoàng hôn”, ánh lửa bữa cơm chiều từ những căn bếp mà lòng vẫn đượm một nỗi nhớ mong sâu nặng. Ấy rồi mở rộng ra nỗi nhớ quê đau đáu của Huy Cận lại diễn ra khi chính bản thân tác giả đang đặt chân ở mảnh đất quê mình, ta mới hiểu được rằng nỗi nhớ quê chính là lòng yêu nước thầm kín, Huy Cận nhớ về những ngày đã xa, khi đất nước còn yên ấm, tươi đẹp, khác hẳn với hiện thực đau thương, buồn bã. Mà trước cảnh tượng ấy, ông lại chỉ có thể bất lực trước thời thế rối ren, luẩn quẩn trong chính sự bế tắc của tâm hồn với những nỗi sầu bi bất định, nghe thật chua xót.

Hồn thơ Huy Cận là một hồn thơ hay và chịu thích nghi với thời cuộc, trước cách mạng tháng tám với tư cách là một trí thức tiểu tư sản, trong các sáng tác của mình, ông thường bộc lộ những nỗi buồn thế sự, nỗi bất lực trước cảnh đổi thay của thời đại, cũng như cảnh đau thương của đất nước, thể hiện tấm lòng yêu đất nước sâu nặng. Tất cả những tình cảm ấy được thể hiện rõ nét trong Tràng giang bằng lối thơ vừa cổ điển vừa hiện đại, kết hợp cùng nỗi ám ảnh sâu sắc với không gian rộng lớn, Huy Cận đã tạo ra một tác phẩm xuất sắc, để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc về thơ ca Việt Nam giai đoạn trước cách mạng.


Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang - Mẫu 4

Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến Huy Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của Huy Cận đều chất chứa những nỗi buồn miên man, sầu bi của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông đang sống. Đằng sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước. Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.

Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình.

Tưởng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng sang khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm nhiều chút, thấm sâu vào cảnh vật:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều

Cặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn. Như tự nhiên vốn có, không gian chợ búa gợi sự đông vui, tấp nập, nhưng trong đoạn thơ, hình ảnh chợ xuất hiện mà chẳng thấy chút hơi ấm của cuộc sống, tiếng cười nói, mua bán của con người. Vạn vật như nằm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, không gian cũng được mở rộng cả chiều kích sâu rộng:

“Nắng xuống trời lên, sâu chót vót
Sông dài trời rộng, bến cô liêu”

Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá cho thấy được chiều kích vô cùng của không gian. “Sâu chót vót” gợi sự thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Càng rộng, càng cao, càng sâu bao nhiêu thì cảnh vật càng buồn vắng, lẻ loi bấy nhiêu. Sông tuy dài mà bến bờ cô lẻ, nỗi buồn như mở rộng theo chiều kích không gian, thấm sâu trong từng hơi thở.

Theo mạch cảm xúc của hai khổ thơ trước, khổ thơ thứ ba càng khắc sâu thêm nỗi buồn tuyệt đối:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh cánh bèo gợi sự vô định, lênh đênh. Những cánh bèo trôi dạt liên tiếp “hàng nối hàng” không nơi bấu víu, chẳng chốn trở về hay chính là hình ảnh ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng lúc bấy giờ. Sông nước mênh mông, dài rộng, không có lấy một chuyến đò đi qua, cây cầu bắc ngang cũng chẳng thấy nên dù muốn nhưng nào có chút hy vọng mong manh về sự gắn kết với con người. Tất cả dường như đang chống đối với lòng người, kẻ cô đơn đang khao khát giao cảm, thấu hiểu, sẻ chia lại không có một chút tình đời, tình người ở lại.

Khổ thơ cuối bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn sâu lắng của lòng người:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”.

Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng, khoáng đạt.

Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết, cồn cào:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Trong thơ Đường Thi cũng đã từng viết:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.

Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà. Trong “Tràng giang”, nỗi nhớ quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt hơn bởi “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ vẫn “dợn dợn” trong lòng thi nhân, đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương nói riêng và tinh thần yêu nước nói chung.

Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái, bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,..Qua bài thơ, ta thấy được một nỗi buồn vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời.


Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang - Mẫu 5

Nhắc tới Huy Cận, người ta nhớ ngay đến một “hồn thơ ảo não” (Hoài Thanh). Trước cách mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế, một cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện đại, ông đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải kể đến Tràng giang. Bài thơ in trong tập “Lửa thiêng” (1940) rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận.

Vào một buổi chiều thu năm 1939, có một chàng sinh viên trường Cao đẳng Canh nông, đạp xe dọc theo bờ đê sông Hồng, đến tới bãi Chèm – phía Nam dòng sông, trước cảnh sóng nước mênh mông, đã không kìm nén nổi cảm xúc buồn bã, cô đơn và nhớ nhà da diết nên sáng tác bài thơ Tràng giang. Nhà thơ Huy Cận đã từng tâm sự về hoàn cảnh ra đời bài thơ như thế. Ban đầu, tác phẩm có tên là “Chiều trên sông” nhưng về sau đổi thành Tràng giang. Nhan đề này đã chuyển tải nhiều ý nghĩa hơn. “Tràng giang” là một từ Hán Việt đầy trang trọng, cổ kính, chỉ một con sông dài. Nhưng nhà thơ không dùng “trường giang” (có cùng nghĩa) để thay thế, bởi cách điệp vần “ang” giúp nhan đề vừa gợi âm hưởng ngân vang, vừa gợi nên cảm giác một dòng sông không những dài mà còn rộng. Thêm lời đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài càng làm rõ hơn sắc thái cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Đó là nỗi buồn của con người trước một không gian mênh mông, rộng lớn có thể bao trùm cả vũ trụ.

Và quả thực trước một dòng tràng giang như thế, thi nhân đã không giấu nổi nỗi buồn mà cứ để nó lan tỏa khắp mọi không gian, bao trùm cả vũ trụ.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Khổ thơ đầu đã mở ra một khung cảnh tràng giang mênh mông, rộng lớn đối lập hoàn toàn với những thứ nhỏ bé như sóng, con thuyền, cành củi khô. Những sự vật ấy đồng thời cũng gợi nên nỗi buồn mênh mang theo sóng nước. Qua các từ gợn, buồn điệp điệp, nước song song, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nỗi buồn càng trải dài, lan tỏa khắp cả mặt sông dài rộng. Ở đây tuy có sự vật nhưng mọi thứ lại chẳng hề gắn kết, nhất là thuyền và nước, hai thứ vốn dĩ không tách rời vậy mà thuyền về, nước lại khiến nỗi sầu, nỗi buồn như chia ra thành trăm ngả. Tuy nhiên điểm nhấn rõ nét nhất của khổ thơ chính là hình ảnh củi một cành khô. Sự vật vốn đã chẳng còn sức sống, lại nổi trôi vô định trên dòng sông đã vẽ một nét hiện đại để khắc họa nỗi buồn. Mà hơn nữa nó còn lạc mấy dòng thì không chỉ là nỗi buồn, nó hiện hữu cả nỗi cô đơn. Đó phải chăng là sự hiện thân cho kiếp người nhỏ bé, lênh đênh, bất định giữa dòng đời của chính tác giả?

Đến khổ thơ thứ hai, điểm nhìn của nhân vật trữ tình đã xa hơn, khung cảnh trên sông được hướng vào chiếc cồn nhỏ, vào bầu trời và khắp cả dòng sông.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xe vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu

Nhưng dường như không gian cũng không có mấy thay đổi, thậm chí hai từ láy lơ thơ, đìu hiu lại càng khắc họa sự vắng lặng, yên ắng, quạnh hiu. Đâu đó (hay là đâu có) có âm thanh của sự sống? Dẫu có có đi chăng nữa thì tiếng làng xa vãn chợ chiều cũng chẳng làm cho nơi đây nhộn nhịp hơn, thậm chí càng tô đậm thêm sự tĩnh lặng. Bởi vậy xung quanh chỉ còn là nắng trên trời, sông trước mặt, thứ xuống thứ lên, thứ dài, thứ rộng mà dường như vốn đã xa nay lại càng xa hơn. Cách sáng tạo từ sâu chót vót đã giúp tác giả miêu tả được khoảng cách giữa trời với sông vừa có độ cao vừa có độ sâu, khiến không gian như mở ra ba chiều, khuếch tán rộng hết mức ở toàn vũ trụ. Chỉ còn lại trơ trọi bến cô liêu thì chúng ta mới biết nỗi buồn đã rộng khắp mọi không gian và nỗi cô đơn càng ngày càng lớn. Lúc này thi nhân không còn đối diện với dòng sông như ở khổ trên nữa mà hoàn toàn bị choáng ngợp, quá nhỏ bé trước không gian vũ trụ như thế.

Rồi ánh mắt thi nhân lại tiếp tục kiếm tìm. Hình như nhân vật trữ tình “lục lọi” đâu đây một chút sự sống của con người.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Lần này hiện lên là hình ảnh hàng bèo quen thuộc. Trong thơ xưa nó chính là hiện thân cho kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời. Nhưng chỉ là cánh bèo, chứ không phải hàng nối hàng bèo như ở đây. Vâng, không biết bao nhiêu hàng bèo như thế, nối tiếp nhau trôi dạt về đâu? Có nỗi buồn, sự bơ vơ, lạc lõng không phải của một cành củi khô nữa mà là của cả một thế hệ con người chẳng biết sẽ đi đâu về đâu? Hình ảnh thơ đơn giản nhưng gói ghém được tâm sự của cả bao nhiêu thân phận con người lúc bây giờ. Bởi vậy nhìn xung quanh đâu cũng thấy mênh mông, đâu cũng không thấy có dấu hiệu của sự sống nào hết. Điệp từ phủ định càng làm cho con người chẳng có chút bóng dáng nào hiện hữu nơi đây. Không một chuyến đò, không một cây cầu thì nỗi niềm thân mật dù một chút thôi cũng thực khó. Thế là chỉ còn lại thiên nhiên tiếp xúc với thiên nhiên. Hai từ lặng lẽ có chút ngậm ngùi vì nhìn hết cảnh trí dòng sông từ trên cao xuống thấp, xa đến gần mà rồi cũng chỉ còn lại những bờ xanh, bãi vàng nối tiếp nhau. Không gian vì thế lại tiếp tục thêm phần mênh mông bát ngát. Nỗi cô đơn, sự buồn bã của con người chưa có dấu hiệu vơi cạn, thu hẹp lại theo bất cứ một chiều nào.

Cả ba khổ thơ là một bức tranh thiên nhiên thấm đẫm những phong vị cổ điển xen lẫn chút hiện đại đầy độc đáo để khắc họa một không gian vô cùng, vô tận. Tất cả cũng chỉ để chứa đựng một nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Bao nhiêu hi vọng dồn vào khổ cuối, để cái tôi vơi bớt đi phần nào những chất chứa ưu tư. Vậy mà:

Lớp lớp mây cao, đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Khung cảnh thiên nhiên lại có sự thay đổi, nhưng lần này không phải là dòng sông mênh mông, vắng lặng như những khổ trên mà thay vào đó là sự tráng lệ, hùng vĩ nổi bật trên nền trời chiều. Vẫn sử dụng những thi liệu cổ quen thuộc là mây, chim, nhà thơ vẽ lên nền trời ấy những đường nét, màu sắc thật sinh động. Đó là lớp lớp những áng mây ánh bạc đang đùn trên bầu trời như những ngọn núi. Đặc biệt là cánh chim chao nghiêng được coi là một khoảnh khắc mà thâu tóm được sự chuyển động của hai sự vật. Chẳng biết cánh chim nhỏ ấy nghiêng nhẹ đôi cánh một cái là bóng chiều sa xuống hay bóng chiều đổ mà đè nặng lên cánh chim khiến nó ngả nghiêng? Nhưng khoảnh khắc đồng hiện này đã tạo nên một sự dịch chuyển rất mau lẹ cả về không gian lẫn thời gian. Và thêm một lần nữa lòng người không thể nào xua tan được sự bủa vây của ngoại cảnh. Không gian có thay đổi, có tráng lệ đến đâu trong lòng thi nhân vẫn cảm thấy trống trải. Nhưng lần này nỗi cô đơn đã hóa nỗi nhờ nhà. Biết bao nhiêu cảnh trí trên trời, dưới sông đều dồn về cảm xúc dợn dợn. Từ láy nguyên sáng tạo này của nhà thơ đã khắc hoặc rất chân thực một nỗi niềm bâng khuâng, da diết của “lòng quê” khi nó hô ứng với cụm từ “vời con nước”. Bao nhiêu nỗi buồn rồi cũng trào dâng lên thành nỗi nhớ quê hương. Nhưng lạ thay, ở ngay trên mảnh đất quê hương mà lại thấy nhớ quê hương đến như vậy. Thế mà quê hương lại chẳng còn, đó là nỗi niềm chung của cả một thế hệ các nhà thơ mới trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ. Cảm giác xa quê hương, “thiếu quê hương” trở thành sự rung cảm sẵn có mà chẳng cần đến khói sóng hoàng hôn như thi sĩ Thôi Hiệu đời Đường mới gợi nên nỗi nhớ quê nhà của thi nhân. Không cần vịn vào đâu, tự khắc nỗi nhớ ấy đong đầy, da diết, tự thân nó đã bộc lộ một tình yêu thắm thiết, trĩu nặng với quê hương.

Có hai thứ ấn tượng còn đọng lại sau khi đọc xong bài thơ là không gian vô cùng, vô tận của ngoại cảnh và nỗi buồn, nỗi cô đơn không giới hạn của lòng người. Cả hai như cùng kích ứng để càng rộng, càng lớn thì càng buồn, càng cô đơn khiến bài thơ như chất chứa, tích tụ nỗi sầu của cả ngàn năm lại vậy. Nhưng vượt lên trên hết, bút pháp đặc trưng và nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp dẫu có buồn. Song người đọc vẫn nhìn thấy một tình yêu quê hương đất nước thầm kín hiện lên trong Tràng giang.


Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang - Mẫu 6

Huy Cận được mệnh danh là nhà thơ cả vạn lí sầu. Trước cách mạng hồn thơ ông mang nỗi sầu bi của thời đại. Tác phẩm Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho nỗi buồn miên man của nhà thơ trước cuộc đời, trước thời đại. Ẩn sau nỗi buồn ấy còn là lời tâm sự, lòng yêu nước kín đáo.

Nhan đề của bài thơ gồm hai vần “ang” đây là âm mở, gợi nên sự mênh mông, rộng lớn. Không gian dòng sông hiện ra không chỉ là một con sông bình thường mà nó còn là con sông lớn mang tầm vóc vũ trụ. Không chỉ vậy, sử dụng từ Hán Việt còn khiến cho bài thơ mang âm hưởng cổ kính, mang tính khái quát.

Không phải bất cứ tác phẩm nào cũng có lời đề từ, khi đề từ xuất hiện nó thường là một gợi dẫn có ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi bắt đầu bài thơ Tràng giang là lời đề từ do chính Huy Cận sáng tác:

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

Câu thơ đề tự gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, bát ngát mở ra cả chiều rộng và chiều cao. Trước không gian ấy con người cảm thấy bơ vơ, lạc lòng, đây cũng là cảm xúc của biết bao thế hệ thi nhân xưa nay. Câu thơ đề từ đã khơi mạch cảm xúc chung của bài thơ.

Bài thơ mở đầu bằng khổ thơ thấm đượm nỗi buồn:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Những con sóng lăn tăn gợn theo chiều gió thổi, không gian ấy hoàn toàn yên tĩnh. Nhưng ở đây không chỉ có thiên nhiên mà ẩn khuất còn có tâm trạng của con người “buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hữu hình qua từ láy “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, nó tuy nhẹ nhàng mà thấm đẫm, mà lan tỏa trong lòng con người. Nổi bật trong không gian đó là hình ảnh con thuyền xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt. Giữa dòng tràng giang con thuyền trở nên bé nhỏ, đơn côi tựa như chính hình ảnh con người. Từ “xuôi mái” cho thấy trạng thái buông xuôi, phó mặc cho dòng nước xô đẩy. Đó phải chăng cũng chính là tâm trạng của những con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền cứ trôi, cứ về để lại nỗi buồn mênh mang, vô hạn cho người ở lại – nước. Và hiển hiện trong hiện thực đó chính là những cành củi khô đơn độc, lẻ loi. Đảo ngữ “củi” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, không chỉ vậy đó còn là cảnh củi khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi khô” ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ giữa sự mênh mông của dòng đời. Đồng thời còn ẩn dụ cho cái tôi lạc loài, bơ vơ trong Thơ mới.

Huy Cận di chuyển điểm nhìn về gần hơn với những bãi, những cồn ở ngay trước mắt mình. “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu” là một hình ảnh rất thực ở bãi giữa sông Hồng, kết hợp với hai từ láy “lơ thơ” “đìu hiu” gợi nên sự thưa thớt, vắng vẻ, hiu quạnh. Trong không gian ấy tác giả cố gắng đi tìm hơi ấm cuộc sống, là tiếng chợ xa, nhưng “đâu” có thể tìm thấy được, không gian là sự tĩnh lặng đến tuyệt đối. Nỗi buồn càng được tô đậm hơn nữa khi không gian được mở rộng đến vô cùng, nắng xuống chiều lên, sông dài – trời rộng, kết hợp với từ “sâu chót vót” đã mở rộng không gian ra cả ba phía: rộng, cao, sâu. Khắc họa nỗi cô đơn, sự nhỏ bé đến cực điểm của con người trước không gian vũ trụ.

Đôi mắt Huy Cận lại tìm kiếm, lại hướng ra vô cùng và thu lại chỉ có:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Những cánh bèo lênh đênh, vô định nối tiếp nhau chảy trôi, sự chảy trôi không mục đích, không phương hướng, cũng như những kiếp người nhỏ bé, đơn độc lúc bấy giờ. Không gian sông nước mênh mông không có lấy một chuyến đò qua sông. Đò ấy không đơn thuần là phương tiện trung chuyển con người mà nó còn là phương tiện kết nối tình cảm. Nhưng tất cả đã bị phủ định một cách tuyệt đối: không một, không cầu, không còn một chút tình đời, tình người nào còn tồn tại ở đây nữa.

Khổ thơ cuối cùng vẽ ra bức tranh không gian nhiều tầng bậc, ông hướng mắt lên cao: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc/ Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa”. Bầu trời với những đám mây lớn được phản chiếu dưới ánh mặt trời trở nên hùng vĩ, tráng lệ hơn. Động từ “đùn” cho thấy những đám mây ùn ùn kéo về, dựng lên những dãy núi tráng lệ. Và giữa lưng chừng trời là cánh chim nhỏ bé, đơn độc, cảm tưởng như nó đã bị không gian nuốt chửng. Trước cảnh thiên nhiên cô tịch, lặng lẽ, nỗi nhớ quê hương trong ông bỗng da diết, cồn cào:

Lòng quê dờn dợn vợi con nước
Không khói hoàng hôn cùng nhớ nhà.

Câu thơ làm ta bất giác nhớ đến câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Cũng đều là nỗi bi ai, là nỗi nhớ quê khắc khoải nhưng Huy Cận đã có cách thể hiện thật mới, thật lạ. Lòng quê “dờn dợn” tức cứ tăng, cứ mạnh mãi lên, dường như sóng lòng đang trải ra cùng sóng nước. Nỗi nhớ quê hương luôn thường trực, dai dẳng. Đây cũng là biểu hiện kín đáo của lòng yêu nước.

Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng.


Video Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài thơ Tràng Giang

Tác giả : Topbee
Đánh giá bài viết
Đặt câu hỏi
icon-make-question icon-make-question