image hoi dap
image hoi dap

Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy

icon-time8/12/2023
(1 đánh giá)

Nguyễn khuyến- bậc thầy viết thơ trào phúng với những lời thơ giễu cợt, mỉa mai. Bài thơ Tiến sĩ giấy là một trong những bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Khuyến. Cùng Topbee tham khảo bài Phân tích bài thơ “Tiến sĩ giấy” dưới đây


Luận điểm chính bài thơ Tiến sĩ giấy


Phân tích 2 câu đề

   Nhìn trên ý nghĩa bề mặt văn bản bài thơ có thể thấy đối tượng mà Tam nguyên Yên Đổ hướng tới để tạo nên tiếng cười là những đồ chơi dân gian – hình nộm ông tiến sĩ làm bằng giấy dành cho trẻ con trong những dịp tết trung thu. Làm loại đồ chơi này, các nghệ nhân dân gian muốn khơi dậy ở trẻ em lòng hiếu học và ý chí phấn đấu để đạt tới vinh quang của nền học vấn thời đại, cống hiến tài năng cho đời, đem lại niềm vui cho ông bà, cha mẹ, vinh quang cho dòng họ, tổ tiên. Như vậy, hình ảnh ông nghè tháng Tám là một hình ảnh mang tính truyền thống rất đẹp. Ở hai câu đề, Nguyễn Khuyến chưa nói thẳng cho người đọc biết rõ người được ông giới thiệu trong bài thơ là ai. Nhân vật này có đủ cờ, biển, cân, đai, lọng xanh, ghế chéo đích thị là một vị tiến sĩ oai phong mới được ghi danh đỗ đầu trên bảng rồng:

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.

  Biển là tấm gỗ sơn son thếp vàng có khắc bốn chữ "ân tứ vinh quy". Cẩn là cái khăn. "Đai" là cái vòng đeo ngang lưng ở ngoài áo chầu. Hết thảy đều là những thứ cao quý vua ban cho người đỗ tiến sĩ để vinh quy bái tổ. Nhân vật có vẻ bề ngoài vừa uy nghi, vừa phô trương tự đắc. Tuy nhiên, điệp từ cũng xuất hiện với mật độ dày đặc và ẩn chứa ý vị mỉa mai bắt đầu bộc lộ thái độ của tác giả, khiến cho ta thấy có điều gì đó bất thường ở vị tiến sĩ này. Từ "cũng" được nhấn mạnh, được đưa lên đầu câu, chỉ sự giống nhau, lặp lại của hiện tượng, kết hợp với ba từ "có kém ai" khiến cho con người có học vị cao này có cái vẻ của sự giả dối, học đòi. 


Phân tích 2 câu thực

Đến hai câu sau mọi việc đã trở nên rõ ràng hơn. Nhân vật "cũng biển cũng cân đai" kia hóa ra chỉ là một ông tiến sĩ giấy, bề ngoài giống hệt như tiến sĩ thật nhưng thực chất bên trong lại rỗng tuếch chẳng có gì. Cái chất liệu làm nên con người ông đơn giản chỉ là từ mấy mảnh giấy và một ít son diêm dúa:

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

    Trong hai câu thực này, nghệ thuật đối được Nguyễn Khuyến sử dụng hết sức đắc địa. "Mảnh giấy" đối với "thân giáp bảng", "nét son" đối với "mặt văn khôi". "Giáp bảng" là bảng công bố kết quả thi cử ngày xưa, còn được gọi một cách trang trọng là bảng rồng. "Thân giáp bảng" là người đỗ đạt cao nhưng thực chất ở đây chỉ được chế tác từ một mảnh giấy vụn. Còn chỉ bằng vài "nét son" là có thể tạo nên "mặt văn khôi" – chỉ người đứng đầu làng văn. Nguyễn Khuyến đã đặt những sự vật có giá trị khác hẳn nhau vào trong một kết cấu song hành, đối lập, cho mọi người thấy được việc tạo ra một ông tiến sĩ giả bằng giấy thực chẳng khó khăn gì, qua đó thể hiện tính chất rẻ mạt, vô nghĩa của danh hiệu tiến sĩ thực của cái thời cuối phong kiến đầu thực dân này.

    Ông nghè tháng Tám có diện mạo bên ngoài giống hệt như tất cả các ông tiến sĩ thật nhưng cái thực học chỉ nhẹ hều như mảnh giấy và vết son mà thôi. Nhà thơ đã mượn hình ảnh của ông tiến giấy để nói về ông tiến sĩ thật đương thời, vạch trần bản chất giả dối của đối tượng bằng cách chỉ ra mâu thuẫn giữa hình thức bề ngoài lộng lẫy, hào nhoáng được che giấu hết sức tinh vi và cái thực chất bên trong sáo rỗng, đáng thương hại của nhân vật.

  Đối với kẻ theo đòi chuyện học hành thì danh hiệu tiến sĩ là niềm vinh quang mà muốn đạt được nó thì người quân tử phải không ngừng tự học hành rèn luyện, có tri thức thông kim bác cổ, có tài năng xuất chúng để ra giúp dân, giúp nước. Có biết bao người đã theo đòi học hành chăm chỉ suốt đời mà vẫn không đạt được vinh hạnh đó. Nhưng nay thì đã khác, cái danh hiệu ấy đã bị người đời coi thường, khinh rẻ:


Phân tích 2 câu luận

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.

   Đến hai câu luận này, Nguyễn Khuyến dường như đã chuyển từ việc mô tả khách quan sang việc đánh giá chủ quan. Chỉ qua hai cụm từ cảm thán: "sao mà nhẹ", "ấy mới hời" dường như giá trị của ông nghè đã có thể mang ra cân đo, đong đếm. Ngày xưa kẻ lao tâm khổ tứ để đỗ đạt khoác trên thân tấm áo vua ban mà cảm thấy trách nhiệm nặng nề, thì nay kẻ mua danh bán tước khoác lên mình tấm áo ấy mà sao lại thấy nhẹ bẫng. Đơn giản bởi nó là thứ giả. Không phải ngẫu nhiên khi mô tả một ông tiến sĩ bằng giấy nhưng nhà thơ vẫn phải luôn gắn vào đó từ "thân" (thân giáp bảng) hoặc "tấm thân" (tấm thân xiêm áo), chính để tạo nên sự so sánh. Nhưng sao những lời lẽ tưởng như chủ quan chế giễu, mỉa mai trên lại như cũng đang nhuốm những ngậm ngùi, chua chát, cảm thán thời thế và nhà thơ dường như đang buồn cho chính mình vậy?


Phân tích 2 câu kết

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.

     Ở đây, thêm một lần nữa tác giả tiếp tục khắc họa sâu thêm sự đối lập, tương phản gay gắt giữa cái bên ngoài và bản chất thật của ông tiến sĩ. Cụm từ ghế chéo lọng xanh vẫn gây cho người đọc ấn tượng về dáng vẻ oai vệ vốn có của nhân vật có học vấn cao nhất đương thời. Nhưng lần nâng lên cuối cùng này cũng sẽ là lần Nguyễn Khuyến giáng cho đối tượng trào phúng đòn hạ bệ chí mạng nhất. Giọng điệu mỉa mai, hài hước của hai chữ bảnh chọe đã giết chết, đã vạch rõ cái oai phong của vị tiến sĩ kia thực chất chỉ là cái mẽ giả dối bên ngoài:

  Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.

    Thật là một hình ảnh thảm hại! Cái kẻ mà ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe ấy hóa ra là một thứ con rối chịu để kẻ khác giật dây mà thôi. Cái xã hội bát nháo ấy, cái thứ triều đình bù nhìn toàn những quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề ấy nhất định chỉ có thể sản sinh ra cái thứ hàng mã này. Mà cái kẻ đứng đằng sau giật dây tất cả lũ rối người ấy từ trên xuống dưới không ai khác chính là bè lũ thực dân cướp nước. Nguyễn Khuyến đã nhìn thấy tất cả điều đó và ông kín đáo đưa ra trào phúng đại diện ưu tú nhất nhưng đã trở nên lỗi thời của cái thể chế đó.


Dàn ý Phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy

1. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Nêu vấn đề cần nghị luận 

2. Thân bài:  

- Hai câu đề: hiện thực của “tiến sĩ” trong giai đoạn đó

- Hai câu thưc: hiện thực xã hội đối rẻ mạt, những danh hiệu cao quý ấy đều được mua bằng tiền, đều trở nên vô nghĩa

- Hai câu luận: vạch mặt thực trạng xã hội giả dối trái ngược lại với vẻ bề ngoài cao quý, lộng lẫy

- Hai câu kết: lời khẳng định đầy chua xót

3. Kết bài:

- Giá trị nghệ thuật

- Giá trị nội dung

- Bài học          


Phân tích bài thơ tiến sĩ giấy ngắn gọn ( 9 điểm)

    Tam nguyên yên đổ Nguyễn Khuyến là nhà khoa bảng, nhà thơ yêu nước tài danh thuộc thế kỷ XIX. Thơ ông thể hiện tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương, ẩn chứa trong những lời thơ là tấm lòng yêu nước cùng nỗi u uẩn trước thời thế. Ngồi bút tả cảnh của ông vừa chân thực vừa tài hoa, ngôn ngữ giản dị mà điêu luyện. “Tiến sĩ giấy” là một trong những bài thơ nổi bật của Nguyễn Khuyến nằm trong chùm thơ trào phúng. Cứ mỗi dịp tết trung thu về hình nộm của ông tiến sĩ giấy lại xuất hiện. Hình tiến sĩ giấy thể hiện truyền thống hiếu học, trọng khoa bảng của dân tộc ta. Vào cuối thế kỷ XIX chế độ thực dân nửa phong kiến khiến cho nền văn hóa nho học nước lụi tàn. Chứng kiến thực trạng này, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã sáng tác ra bài thơ để thấy hiện thái độ mất niềm tin về chữ nghĩa thánh hiền:

“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.

Cũng gọi ông nghè có kém ai.

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?

Cái giá khoa danh ấy mới hời!

Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,

Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!”

Phân tích bài thơ tiến sĩ giấy

     Tam nguyên yên đổ Nguyễn Khuyến sống trong thế kỷ 19, khi mà xã hội Việt Nam bị thực dân nửa phong kiến chiếm đóng. Chúng luôn tìm cách bay ra những trò lố lăng, làm cho nền văn hóa cũng như đạo đức truyền thống của người Việt Nam bị đảo lộn. Bài thơ “tiến sĩ giấy” thể hiện phong cách sáng tác trào phúng, châm biếm xã hội phong kiến Việt Nam. Ngay từ tên bài thơ, ông đã đem đến cho người đọc sự tò mò thú vị. Tiến sĩ để chỉ những người có học thức cao, là niềm vinh quang của bản thân và cho cả dòng họ. Họ sẽ vinh danh, tiến sĩ luôn chứa trong mình nguồn tri thức của thời đại. Hằng năm nước ta vẫn luôn tổ chức các đợt thi để tìm ra người tài, tìm ra những nhân tố góp phần phục vụ và xây dựng đất nước. 

“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.

Cũng gọi ông nghè có kém ai.”

Mở đầu tác phẩm, nhà thơ không giới thiệu rõ nhân vật này là ai, theo cảm nhận của người đọc đây hẳn là một vị tiến sĩ tài cao. Đối tượng ấy có cờ, có biển, có cân đai. Biển- tấm thiếp vàng bằng gỗ in chữ “ân tứ vinh quý”. Có “cân đai” là dây đeo ngang lưng đây đều là những vật cao quý, là những thứ tạo nên y phục của quan lại, chức quan lớn trong thời kỳ phong kiến. Tất cả đều là những thứ đó được vua ban cho người đỗ tiến sĩ để vinh quy bái tổ. Câu thơ mở đầu khiến cho nhân vật hiện lên vẻ uy nghi, cao quý. Thế nhưng tác giả lại dùng điệp từ “cũng” bốn lần trong hai câu thơ chắc hẳn đằng sau ẩn chứa một ý nghĩa sâu sắc. Điệp từ “cũng” kết hợp với “có kém ai” khiến cho những người tiến sĩ, quan lại trong triều đình mất đi vẻ cao quý. Hóa ra họ cũng chỉ là những ông tiến sĩ giấy, là sự giả dối, học đòi giống hệt như những tiến sĩ thật nhưng thực chất ẩn sâu bên trong là sự trống rỗng, không thực sự có gì nổi bật. Sống trong thời đại của Nguyễn Khuyến, những giá trị truyền thống về văn hóa nho học không còn được coi trọng như trước nữa. Mọi thứ từ quan cao chức lớn đều có thể mua được bằng tiền, cái chức tiến sĩ ấy giờ chỉ còn là những điều tầm thường. Một xã hội rối ren, đảo lộn khiến cho Nguyễn Khuyến không khỏi thất vọng lo lắng. Những người tài thực sự lại không được trọng dụng, một xã hội như thế thử hỏi làm sao xã đất nước có thể phát triển? Nguyễn Khuyến đã từng tự trách mình qua bài thơ “tự trào”:

“Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ?

Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng”

Vốn là người tài đáng ra Nguyễn Khuyến có thể góp nhiều công sức của mình vào việc phục vụ xây dựng đất nước. Thế nhưng chính xã hội ấy, ông đã phải từ quan về ở ẩn để bảo vệ phẩm chất, giữ cho mình thanh cao.

“Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.”

Trong hai câu thực này, Nguyễn Khuyến đã dùng “mảnh giấy” đối với thân giáp bảng, “nét son” đối với “mặt văn khôi”. Giáp bảng hay còn gọi là bảng công bố kết quả thi cử ngày xưa lại được làm lên từ mảnh giấy. Đây là cách nói giễu cợt đầy mỉa mai của Nguyễn Khuyến để nói về tiến sĩ thời kỳ đó. Chỉ bằng vài nét son đã có thể tạo nên mặt văn khôi- người đứng đầu làng văn. Nguyễn Khuyến đã tái hiện hiện thực xã hội đối rẻ mạt, những danh hiệu cao quý ấy đều được mua bằng tiền, đều trở nên vô nghĩa.

Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh tiến sĩ giấy để nói về những người tiến sĩ đương thời, vạch mặt thực trạng xã hội giả dối trái ngược lại với vẻ bề ngoài cao quý, lộng lẫy. Chức quan tiến sĩ vốn được người xưa tôn trọng, vinh danh nay bị người đời coi thường, khinh rẻ:

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?

Cái giá khoa danh ấy mới hời!

Đến hai câu luận, với tài năng dùng từ đắc địa của mình, Nguyễn Khuyến đã dùng cụm từ “sao mà nhẹ”, “ấy mới hời” để nói lên cái giá để mua được chức danh. Nếu như ngày xưa, để thi được tiến sĩ những người quân tử phải không ngừng rèn luyện, học tập. Họ là những người có tài năng thật sự, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Thế nhưng ngày nay cái chức danh tiến sĩ ấy sao nghe thật nhẹ nhàng, đơn giản nó có thể dễ dàng được mua bởi những kẻ lười nhác, mơ mộng thích sống trong mơ ảo. Đây là những lời chế giễu mỉa mai đầy chua xót trước thời thế lúc đó.

“Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,

Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!”

Ghế tréo, lọng xanh gây cho người đọc dáng vẻ học cao, quyền quý. Sống trong cái xã hội, xã hội mà triều đình cùng các quan bị che mờ bởi những thứ hào nhoáng thật đáng sợ.

     Bằng lối viết thơ trào phúng, cùng giọng điệu mỉa mai giễu cợt châm biếm sâu cay tam nguyên yên đổ Nguyễn Khuyến đã tái hiện lại bức tranh đầy giả dối, bi hài của nước ta thời kỳ đó. Bài thơ “tiến sĩ giấy” không sử dụng những lời nói nặng nề mà là tiếng nói giễu cười châm biếm mang nặng nỗi buồn ưu tư. Tác giả đã phê phán nền giáo dục khoa cử của đất nước ta thời kỳ đó, cho thấy sự mục nát của chế độ thực dân nửa phong kiến. Qua đây Nguyễn Khuyến để lại chúng ta bài học sâu sắc về tầm quan trọng của nền giáo dục giúp ta bảo vệ và cống hiến cho đất nước.


Mở bài áp dung cho bài phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy

Mẫu 1

Tam nguyên Yên Đổ cũng là người có nhiều bài thơ mang ý vị tự trào vào loại hay và tiêu biểu nhất trong văn học dân tộc. Tiến sĩ giấy chính là một trong những tác phẩm như vậy. Bài thơ thể hiện tài năng nghệ thuật của một tác gia trào phúng bậc thầy và mang ý nghĩa thời đại rõ rệt.

Mẫu 2

Nguyễn Khuyến (1835-1909) là một người vốn từ nhỏ thông minh, hiếu học, ông đỗ đạt rồi ra làm quan, ông nổi tiếng là thanh liêm và có lối sống gần gũi chan hòa với nhân dân. Nguyễn Khuyến đã để lại một kho tàng các tác phẩm cho Việt Nam như Quế sơn thi tập, Yên đỗ thi tập, những bài thơ vịnh mùa thu. Trong số các tác phẩm của ông, bài thơ Tiến sĩ giấy vừa mang âm hưởng trào phúng lại mang sự hài hước dí dỏm, dễ đi vào lòng người, và đói với tất cả mọi tầng lớp độc giả.

Mẫu 3

Cùng là thơ trào phúng, nếu Trần Tú Xương góc cạnh, sâu cay bao nhiêu thì Nguyễn Khuyến lại nhẹ nhàng, kín đáo bấy nhiêu. Giáo sư Dương Quảng Hàm từng nhận xét chất trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến chính là lời của bậc đại nhân quân tử dùng để khuyên răn người đời. Đặc điểm đó của bút pháp trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến được khắc họa rõ nét qua tác phẩm thơ Tiến sĩ giấy.


Kết bài áp dung cho bài phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy

Mẫu 1

Bởi cụ cũng là một ông nghè đích thực, hơn nữa là Tam Nguyên Yên Đổ nổi danh, nhưng trước tình cảnh tang thương của đất nước lúc bấy giờ, cũng đành thở dài ngậm ngùi, buông xuôi, bất lực. Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ là lời bình phẩm theo kiểu nâng nhân vật lên cao để rồi bật ra cái cười mỉa mai chua chát, đắng cay khi phải phơi bày sự thực là tiến sĩ thật hay tiến sĩ giấy giờ đây cũng đểu là thứ đồ chơi mà thôi! Nỗi đau tuy chưa chảy thành nước mắt nhưng cứ rưng rức ở trong lòng nhà thơ. Bài thơ Tiến sĩ giấy mới đọc qua tưởng chỉ ià một bài thơ vịnh vật đơn thuần nhưng suy ngẫm kĩ, ta sẽ thấy nó hàm ẩn chất trào phúng trữ tình sâu thẳm, thật đáng trân trọng.

Mẫu 2

Mượn hình ảnh tiến sĩ giấy - một món đồ chơi dân gian, nhà thơ Nguyễn Khuyến dùng giọng điệu mỉa mai, trào phúng của mình để phê phán, vạch trần bộ mặt thật của các vị tiến sĩ đương thời. Đó là những kẻ bù nhìn, chỉ có vẻ ngoài kệch cỡm cố bắt chước, ra vẻ. Nhưng vì chẳng có nội hàm, cái đầu lại rỗng tuếch nên tự biến mình thành trò hề, thành món đồ chơi cho những kẻ cầm quyền. Những tiến sĩ đó là đại diện cho nền học vấn của nước nhà, đại diện cho cả một triều đình phong kiến. Sự giả tạo, rỗng tuếch của họ chính là đại biểu cho một triều đại mục rỗng ở bên trong. Đó cũng chính là một trong các lí do khiến Nguyễn Khuyến lựa chọn rời bỏ triều đình để ẩn cư.

Mẫu 3

Tiến sĩ giấy không chỉ là thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của thơ Nguyễn Khuyến mà còn là một trong những hình tượng điển hình có giá trị nhất của văn học trào phúng Việt Nam ở giai đoạn đỉnh cao. Tiến sĩ giấy cũng không chỉ có ý nghĩa nhất thời, chỉ diễn ra trong thời đại của Tam nguyên Yên Đổ mà còn là hình tượng nghệ thuật mang giá trị phổ biến, chỉ những kẻ bề ngoài mang danh của người có học thức cao nhất nhưng thực chất bên trong lại không tương xứng với cái nhãn mà mình đang mang. Những nhân vật đó thời nào cũng có, đặc biệt trong những giai đoạn mà những giá trị thật giả lẫn lộn, đồng tiền lên ngôi, thời kỳ mà con người được định giá bằng đủ thứ danh hiệu hình thức thì loại người đó càng nhiều. Họ có thể là những kẻ mua danh bán tước, những tiến sĩ giả, nhưng họ cũng có thể là những người đi học thật nhưng tài năng kém cỏi và Nguyễn Khuyến chính là người đầu tiên đã tổng kết hiện tượng xã hội đó thành một hình tượng nghệ thuật điển hình tượng trưng cho mọi thời đại. Điều đó đã khẳng định giá trị sáng tạo và sức sống bền vững muôn đời của thơ ca Tam nguyên Yên Đổ.

 

Hoàng Thảo
Đánh giá bài viết
Đặt câu hỏi
icon-make-question icon-make-question