Phân tích bài thơ Tự Trào
image hoi dap
image hoi dap

Phân tích bài thơ Tự Trào

icon-time5/12/2023

Bài thơ Tự Trào của tác giả Nguyễn Khuyến là một tác phẩm thơ trào phúng nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Nó để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Hãy cùng Topbee phân tích bài thơ Tự Trào để thấy những nét đặc sắc trong tác phẩm nhé!


Bài thơ Tự Trào 

Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ,
Mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng.


Dàn ý phân tích bài thơ Tự Trào 

Mở bài: 

- Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khuyến và phong cách thơ của ông

- Giới thiệu bài thơ Tự trào và nội dung chính của bài thơ

Thân bài:

- Hai câu đề: Hai câu thơ như một bức họa lại chính bản thân mình, đúng với nhan đề “tự trào”

- Hai câu thực: Giễu cợt hoàn cảnh khi ấy của bản thân, khi giặc đến không làm gì được, sợ nhìn cảnh đau thương nên cáo lão về quê.

- Hai câu luận: Bao lần khuyên can vua nhưng không thành, nhân vật trở nên chán nản, thấy mình bất tài.

- Hai câu kết: Đỉnh điểm của sự trào phúng, vừa thương vừa hận bản thân, được đề tên trên bảng vàng, nhận tiền của dân nhưng lại không làm được gì cả.

- Giá trị nội dung: Bài thơ thể hiện sự tự nhận thức của Nguyễn Khuyến về tài năng, về vận mệnh của mình.

Kết bài:

- Nêu ý nghĩa của bài thơ

- Khái quát nghệ thuật của bài thơ

Phân tích bài thơ Tự Trào

Phân tích bài thơ Tự Trào

Khi viết thơ, viết văn châm biếm, các tác giả thường xéo xắt những vấn đề trong xã hội và biến nó thành đề tài. Nhưng hiếm ai như Nguyễn Khuyến, ông viết thơ tự trào, là trào chính bản thân của mình! Người ta nói Nguyễn Khuyến là nhà thơ làng cảnh Việt Nam, với chùm thơ thu lãng mạn tinh tế. Nhưng chẳng ai biết, trong Tự trào, Nguyễn Khuyến lại trở thành một vị quan bất tài tự trào phúng chính bản thân mình!

Tự trào được viết trong khi Nguyễn Khuyến cáo lão hồi hương, khi đất nước bị giặc xâm lăng nhưng ông chỉ có thể đứng nhìn. Là người đề danh bảng vàng, được ca tụng học rộng tài cao nhưng lúc này, ông cũng chẳng biết làm gì. Hết lời khuyên can nhưng không được, ông chán nản bỏ về quê vì không muốn chứng kiến cảnh xót thương. Nhưng cũng chính vì vậy, ông coi thường bản thân và viết nên bài thơ Tự trào trong khi đang ở quê. Không chỉ vậy, bài thơ còn là lời châm biếm xã hội lúc bấy giờ, những kẻ quan cao chức lớn để dân thường chịu khổ vì giặc.

Trong hai câu thơ đầu, Nguyễn Khuyến đã tự vẽ lên dáng hình của mình khi ấy:

Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.

Dường như lúc ấy, vị quan cũ trở về nhưng vẫn không cam lòng, làm bạn với rượu và ngâm thơ. Vậy nên giọng điệu bài thơ mới gàn dở như một ông lão đương lúc say mèm. Ông đã tự nói về mình: không giàu, không nghèo, không gầy, không béo. Dường như đó là con người bình thường đến không thể bình thường hơn, không có gì nổi bật. Trước đây, trong tay ông có chức quan, là người được ca tụng tài hoa. Nhưng khi về quê, khi thấy sự bất lực của mình, niềm tin như đã phai nhòa trong ông, biến vị tuấn tài đó trở nên bình thường như bao người khác!

Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.

Sự châm biếm bắt đầu rõ ràng hơn từ hai câu thực. Nguyễn Khuyến tự cười mình bằng hai chữ “chạy làng”. Ông ví việc mình cáo lão về quê chính là chạy trốn. Mà cũng đúng thật! Ông chạy khỏi hiện thực đau thương, chạy khỏi chốn cung đình cao rộng nhưng tù túng, trở về với thiên nhiên và tự do như ông hằng mong ước. Nhưng khi ấy, hành động này trong mắt chính nhà thơ lại đáng bị lên án. Ông như kẻ vô tâm chỉ biết từ xa đừng nhìn thế cục rối ren của đất nước. Nhưng hỡi ôi! Cái đau lòng và khiến Nguyễn Khuyến đau xót nhất lại nằm trong chính câu thơ, đó là cảnh “không còn nước”. Ván cờ dang dở như cuộc đời, còn chưa kịp cống hiến, quân cờ chưa kịp đi thì đã mất nước. Mà khi ấy, mất nước tức là hết, trong tay chẳng còn lại gì. Thế nên trước hành động chạy trốn của mình, ông lại càng thêm mỉa mai, giọng điệu càng thêm châm biếm!

Phân tích bài thơ Tự Trào

Nhưng một vị quan nhỏ đã vậy, mà những kẻ quyền cao hơn lại có thái độ càng thêm bạc bẽo:

Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.

Nguyễn Khuyến đã khuyên can, đã gàn “bát sách” nhưng chẳng được, tiếng cười dân trở nên chua xót, cười đời, cười mình, cười thế sự vô thường. Khi trở về, ông say trong men rượu như để quên đi nỗi xót xa bên ngoài, lấy rượu để giải sầu, mượn rượu để nói ra nỗi lòng. Không chỉ châm biếm chính bản thân, Nguyễn Khuyến còn châm biếm cả một thế hệ học sĩ lúc bấy giờ. Những người có ăn có học, được bổng lộc của dân đen nhưng lại làm ngơ chính sự, chịu nhục để giặc đọa đày. Vì nỗi đó, ông mới thân lên câu kết:

Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ,
Mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng.

Là một vị danh sĩ một thời, ấy vậy mà ông không làm gì được nên mới “ngán cho mình”. Tự trách mình kém cỏi, không xứng nhưng cả các bậc tiến sĩ hồi ấy cũng thật đang cười. Nào là bia xanh, nào là bảng vàng, nhưng những lúc thực sự cần lại không thầy. Như Nguyễn Khuyến, ông chọn về quê, tránh rời thế sự trên đời. Bởi bao lần ngăn vua không được, ông mới thực sự hiểu rằng “Vua chèo còn chẳng ra gì/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”!

Bài thơ thể hiện sự tự nhận thức của Nguyễn Khuyến về tài năng, về vận mệnh của mình và một thời đại, một thế hệ. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc nhưng lại rất tinh tế, sâu sắc đã châm biếm từ bản thân đến thế hệ ngày ấy, khiến cho người đọc ngỡ ngàng. Vậy nên từ đây say trong men rượu, ông đồng ý bỏ hết về với thiên nhiên và tận hưởng những ngày tháng an nhàn, dù tâm vẫn lo lắng cho nghiệp nước, sự đời!

Tác giả : Topbee
Đánh giá bài viết
Đặt câu hỏi
icon-make-question icon-make-question